;
Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Nhập Bất Tư Nghì Giải Thoát Cảnh Giới
Kệ Khai Kinh
Phật pháp cao sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con thấy nghe được thọ trì
Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Phật.
I. LỜI NÓI ĐẦU
Tôi tin đây là lần đầu tiên bộ Kinh Hoa Nghiêm này được giảng tại nước Mỹ và các vị cũng là lần đầu tiên được nghe giảng. Hiện tại do thời gian có hạn nên không thể giảng giải chi tiết. Vì sao? Vì nếu giảng quá chi li thì e rằng trong sáu tuần lễ chỉ giảng cái tựa thôi cũng còn chưa xong, vì thế mà nay chỉ có thể giảng một cách sơ lược. Đầu tiên tôi sẽ giảng về xuất xứ của bộ kinh này.
Trong kinh điển nhà Phật thì Kinh Hoa Nghiêm này là vua của các kinh, cũng là vua trong các vua. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là vua trong các kinh nhưng không thể xưng là vua trong các vua được. Bộ Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm này được tôn là vua của các vua, là bộ kinh thuộc hệ Đại thừa dài nhất mà Đức Phật đã thuyết, nhưng thời gian Phật thuyết kinh lại không dài lắm, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói bộ đại Hoa Nghiêm này chỉ vỏn vẹn trong vòng hai mươi mốt ngày.
Bộ Kinh này có tám mươi mốt quyển, cũng có chỗ chỉ có bốn mươi quyển hay sáu mươi quyển, nhưng tất cả đều không đầy đủ lắm. Ngay cả bộ tám mươi mốt quyển này cũng vậy, chẳng qua là có đủ cả ba phần Tựa, Chính tông và Lưu thông.
Sau khi Đức Phật Thích-ca-mâu-ni nói xong Kinh Hoa Nghiêm thì bộ kinh này không hề được lưu truyền trên thế gian, ngay cả Ấn Độ cũng không có bộ kinh này. Vậy thì bộ kinh này đã bị ai thỉnh đi? Bị Long Vương thỉnh về Long cung để ngày ngày cúng dường lễ bái.
Sau khi Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni diệt độ sáu trăm năm, có một vị Bồ-tát tên Long Thọ, thông minh tuyệt đỉnh, không ai sánh kịp. Ngài đã đọc hết tất cả những áng văn chương, luận nghị, kinh điển có trên thế gian, do đó Bồ tát khởi tâm muốn đến Long cung xem tạng Kinh và Ngài đã tìm được bộ Kinh Hoa Nghiêm này trong cung rồng. Kinh Hoa Nghiêm có ba bản: thượng, trung và hạ. Bản thượng có mười tam thiên đại thiên thế giới vi trần số bài kệ. Quý vị xem là bao nhiêu? Số vi trần của một thế giới đã là vô lượng vô biên rồi, số vi trần của đại thiên thế giới lại càng nhiều hơn.
Sao gọi là đại thiên thế giới? Một núi Tu-di, một mặt trời, một mặt trăng là một thế giới; một nghìn núi Tu-di, một nghìn mặt trời, một nghìn mặt trăng hợp lại làm thành một tiểu thiên thế giới; hợp một nghìn tiểu thiên thế giới lại gọi là một trung thiên thế giới; hợp một nghìn trung thiên thế giới lại gọi là một đại thiên thế giới. Số vi trần trong một đại thiên thế giới là một con số vô cực không thể tính kể. Nay số kệ tụng lại nhiều như số vi trần trong mười tam thiên đại thiên thế giới thì càng không thể đếm xuể.
Bản thượng Kinh Hoa Nghiêm có bao nhiêu phẩm? Bản thượng có số phẩm bằng số vi trần của một tứ thiên hạ. “Một tứ thiên hạ” nghĩa là: “một” tức một ngọn núi Tu-di, “tứ” là bốn châu lớn (Đông Thắng Thần châu, Nam Thiệm Bộ châu, Tây Ngưu Hóa châu, Bắc Câu-lô châu), hợp lại gọi là một tứ thiên hạ. Số phẩm của bản thượng Kinh Hoa Nghiêm nhiều bằng số vi trần của một tứ thiên hạ, quý vị nói xem là bao nhiêu? Tôi cũng không tính được. Bản trung Kinh Hoa Nghiêm có bốn trăm mười chín vạn tám nghìn tám trăm bài kệ, phân làm một nghìn hai trăm phẩm. Bản hạ Kinh Hoa Nghiêm có tám vạn bài kệ, chia làm bốn mươi tám phẩm. Khả năng ghi nhớ của Bồ-tát Long Thọ rất phi thường, Ngài đọc thuộc lòng bản hạ Kinh Hoa Nghiêm và sau khi trở về Ấn Độ đã sao chép ra toàn bộ, sau lại từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa. Bản kinh truyền sang Trung Hoa chỉ có tám mươi quyển, ba mươi chín phẩm, còn lại chín phẩm vẫn chưa được truyền sang.
Đức Thích-ca-mâu-ni Phật giảng Kinh Hoa Nghiêm tại bảy chỗ khác nhau, tổng cộng có chín pháp hội. Nếu quý vị có thể hiểu rõ được nghĩa lý trong bộ Kinh Hoa Nghiêm này thì xem như thấy được toàn thân Phật; nếu quý vị thông suốt được Kinh Lăng Nghiêm là thấy được đỉnh nhục kế của Phật; nếu quý vị thông suốt được Kinh Pháp Hoa thì thấy được thân Phật, nhưng chưa trọn vẹn; nếu quý vị có thể thông suốt được đạo lý trong Kinh Hoa Nghiêm thì sẽ thấy rõ được toàn thân và tuệ mạng của Ngài.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm này ví như biển lớn, còn những kinh khác giống như những dòng sông nhỏ. Những dòng sông nhỏ không thể sánh với biển lớn. Hiện tại trên thế giới, người có thể giảng được Kinh Hoa Nghiêm không phải không có, nhưng số đó đã ít lại càng ít. Nếu nói không có thì nay chẳng phải chúng ta đang giảng đó sao? Thế sao lại có thể nói là không có người! Thậm chí có người học Phật Pháp, học cả một đời mà ngay đến tên Kinh Hoa Nghiêm cũng chưa hề nghe qua, quý vị nói xem người đó đáng thương biết nhường nào! Bộ Kinh Hoa Nghiêm này đừng nói là giảng mà chỉ đọc qua thôi cũng rất ít người đọc qua được một lần. Đọc qua một lần nhanh nhất cũng phải mất hai mươi mốt ngày. Vì thế, bộ kinh này rất khó gặp.
Nói về “thất xứ cửu hội” của bộ kinh này, có một bài kệ như vầy:
Rời cội bồ-đề cửu-Thệ-đa
Ba, bốn Đao-lợi cùng Dạ-ma
Điện Phổ Quang Minh hai, bảy, tám
Tha Hóa, Đâu Suất năm, sáu qua.
Phật thành đạo ở Bồ-đề đạo tràng, tức là ở cội bồ-đề mà nói Kinh Hoa Nghiêm lần đầu tiên, gồm sáu phẩm, mười một quyển; hội thứ hai ở điện Phổ Quang Minh nói được sáu phẩm, bốn quyển; hội thứ ba tại cung trời Đao-lợi nói được sáu phẩm, ba quyển; hội thứ tư ở cõi trời Dạ-ma nói được bốn phẩm, ba quyển; hội thứ năm ở cõi trời Đâu Suất nói được ba phẩm, mười hai quyển; hội thứ sáu ở cõi trời Tha Hóa nói được một phẩm, sáu quyển; hội thứ bảy lại trở về điện Phổ Quang Minh nói được mười một phẩm, mười ba quyển; hội thứ tám cũng ở tại điện Phổ Quang Minh nói được một phẩm, bảy quyển; hội thứ chín ở rừng Thệ-đa nói được một phẩm hai mươi mốt quyển. Rừng Thệ-đa, hiện nay có thể gọi là khu mộ phần, nơi an trí xương cốt người chết. Đó là nói về “thất xứ cửu hội” của bản hạ.
Bản hạ Kinh này ban đầu có ba mươi chín phẩm, bốn mươi bốn vạn năm nghìn bài kệ, về sau truyền vào Trung Hoa, nhưng có chín phẩm, năm vạn năm nghìn bài kệ vẫn chưa được truyền vào. Bộ Kinh này tuy chưa đầy đủ nhưng cũng hoàn bị các phần Tựa, Chính tông và Lưu thông, do vậy mà Quốc sư Thanh Lương đời Đường khi hoằng dương Kinh Hoa Nghiêm đã cho rằng bộ kinh này có thể nói là tạm hoàn bị.
Quốc sư Thanh Lương chính là hóa thân của Bồ-tát Hoa Nghiêm, vì sao nói Ngài là hóa thân của Bồ-tát Hoa Nghiêm? Vì Ngài chuyên giảng Kinh Hoa Nghiêm, không giảng những kinh khác. Quốc sư Thanh Lương tên Trừng Quán, tự Đại Hưu, người Cối Kê, họ Hạ Hầu. Sinh vào thời vua Đường Huyền Tông, niên hiệu Khai Nguyên (713-741) năm Mậu Dần (738). Thân ngài cao chín thước bốn tấc, hai tay dài quá đầu gối và có bốn mươi cái răng. Thông thường răng của chúng ta có ba mươi mấy cái thôi, còn răng có bốn mươi cái là bậc quý nhân, người được như thế rất ít. Răng của Đức Phật có bốn mươi hai cái, còn Quốc sư Thanh Lương thì có bốn mươi cái; trong bóng tối nhìn mắt của Ngài như có luồn sáng, mắt phát ra ánh sáng, còn ban ngày thì giống như những người bình thường, chỉ khác là tròng mắt của Ngài luôn đứng yên không động. Năm thứ tư, niên hiệu Kiến Trung, Ngài đã viết xong bộ Hoa Nghiêm Sớ Sao; bộ sớ sao này là bản chú giải cho Kinh Hoa Nghiêm nổi tiếng nhất.
Trước khi viết bộ Sớ Sao, ngài cầu nguyện chư Bồ-tát trong Hoa Nghiêm Hải Hội gia bị. “Gia bị” chính là giúp đỡ ngài. Có một tối, ngài nằm mộng thấy trên đỉnh núi đều biến thành màu vàng kim. Khi tỉnh mộng, Ngài biết đó là quang minh biến chiếu. Từ đó về sau, ngài viết Hoa Nghiêm Sớ Sao vô cùng thuận lợi, chẳng cần phải nỗ lực suy tư gì cả. Thông thường khi viết văn, phần nhiều chúng ta phải suy nghĩ để viết từng câu từng lời. Còn Ngài không cần phải suy nghĩ, viết nhanh tựa như chép bài vậy. Trải qua bốn năm, Ngài đã chú giải hoàn toàn bộ Kinh Hoa Nghiêm. Sau khi viết xong ngài lại nằm mộng, cũng không quyết chắc có phải là mộng hay không, nhưng Ngài đã thấy một cảnh giới như vầy nên có thể tạm gọi là mộng. Ngài mộng thấy mình biến thành một con rồng, rồi từ con rồng ấy lại biến thành nghìn nghìn, vạn vạn, vô lượng vô biên con rồng như thế, bay đến những thế giới khác. Đó là Ngài đã thấy được cảnh giới Hoa Nghiêm. Mọi người đều cho rằng đó là biểu trưng cho ý nghĩa của sự lưu thông.
Quốc sư Thanh Lương sống qua hai đời nhà Tùy và Đường với chín triều đại, làm thầy của bảy vị hoàng đế. Sau khi Quốc sư viên tịch, có một vị Tăng Ấn Độ đến Trung Hoa, giữa đường vị ấy gặp hai đồng tử áo xanh, vị Tăng này là người đã chứng quả A-la-hán, Ngài bèn chặn hai đồng tử ở trên hư không lại hỏi:
- Hai vị đi đâu vậy?
Đồng tử đáp:
- Chúng tôi đến Trung Hoa thỉnh răng cấm của Bồ-tát Hoa Nghiêm về điện Văn Thù ở Ấn Độ cúng dường.
Vị La-hán sau khi đến Trung Hoa đã kể cho vua về chuyện hai đồng tử đến thỉnh răng cấm của Bồ-tát Hoa Nghiêm, hình như là chỉ cho Quốc sư Thanh Lương. Thế là vua cho khai tháp của Quốc sư thì quả nhiên phát hiện Quốc sư bị mất một chiếc răng cấm. Những hiện tượng trên thật mầu nhiệm không thể nghĩ bàn. Quý vị xem! Bồ-tát Hoa Nghiêm đã đến Trung Hoa, cho nên Quốc sư Thanh Lương mới có tướng mạo đặc thù như thế.
Căn cứ vào sự phân chia của Quốc sư Thanh Lương về Kinh Hoa Nghiêm thì năm quyển đầu là phần Tựa, năm mươi lăm quyển rưỡi ở giữa là phần Chính tông, mười chín quyển rưỡi sau là phần Lưu thông. Bộ kinh này tuy không được phiên dịch trọn vẹn ra Hán văn, nhưng phần Tựa, phần Lưu thông, phần Chính tông đều có đầy đủ. Những người hoằng truyền Kinh Hoa Nghiêm ở Trung Hoa đều là những vị Đại Bồ-tát, nếu như chẳng phải là cảnh giới của Bồ-tát thì các vị ấy chẳng thể giảng được Kinh Hoa Nghiêm. Cảnh giới Hoa Nghiêm vi diệu mầu nhiệm vô cùng, là sự vi diệu trong vi diệu, là sự nhiệm mầu trong nhiệm mầu.
II. GIẢI THÍCH TÊN KINH
Nhập Bất Tư Nghì Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm.
Trước khi nghe kinh, đầu tiên nhất định phải nhận biết đó là bộ kinh thuộc hệ Đại thừa hay Tiểu thừa. Nhắc đến Đại thừa và Tiểu thừa, hôm nay tôi sẽ kể cho quý vị nghe một câu chuyện. Ở Ấn Độ có vị Bồ-tát tên là Thế Thân, còn gọi là Thiên Thân, Ngài có người anh ruột là Bồ-tát Vô Trước. Bồ-tát Vô Trước học tập theo giáo lý Đại thừa, còn Bồ-tát Thế Thân do có nhân duyên không tốt, nên ngài theo Tiểu thừa và học tập theo giáo lý của phái này. Bồ-tát Thế Thân tư chất rất thông minh, Bồ-tát Vô Trước, anh của ngài, luôn muốn tìm cách độ em tin theo pháp môn Đại thừa, nhưng vẫn chưa có sức mạnh nào khiến cho em mình tin theo. Em của Ngài luôn ca ngợi pháp Tiểu thừa và cho rằng pháp Đại thừa không đúng. Sau đó, Bồ-tát Vô Trước nghĩ ra một cách: Ngài giả bệnh rồi sai người nhắn người em đến thăm mà bảo rằng: “Anh tuổi đã lớn, lại bệnh thế này, nếu em không đến thăm thì sau này anh em không còn cơ hội gặp mặt nữa”. Nghe vậy, người em liền đến thăm Ngài. Bồ tát Vô Trước bảo em:
- Anh sắp chết rồi, những Kinh điển Đại thừa mà anh đã học, em có thể tùy ý lấy xem, nếu em có khả năng xem được thì anh dù chết cũng có thể yên lòng nhắm mắt.
Bồ tát Thế Thân đến thăm anh cũng không có việc gì làm; thế là Ngài bèn cầm quyển Kinh Đại thừa lên xem. Ngài xem bộ kinh nào quý vị có biết không? Đó chính là bộ Kinh Hoa Nghiêm này.
Bồ tát Thế Thân càng xem càng thấy được sự bất khả tư nghì, mới biết rằng cảnh giới Hoa Nghiêm thật là vi diệu chẳng thể dùng lời diễn tả. Giống như mặt trời trên không trung chiếu khắp muôn vật, lại giống như màn lưới của Đại Phạm Thiên Vương từng lỗ dung nhiếp lẫn nhau. Đến lúc ấy Ngài mới biết rõ trước đây mình đã sai lầm, bèn hét lớn:
-Mau đem cho tôi một thanh bảo kiếm!
-Ngài cần bảo kiếm để làm gỉ? Người bên cạnh hỏi.
-Tôi muốn cắt lưỡi của mình.
-Vì sao ngài lại muốn cắt lưỡi?
-Trước đây tôi đã dùng tấc lưỡi này để khen ngợi pháp Tiểu thừa, hủy báng Kinh điển Đại thừa, đó là tội lớn nên tôi muốn cắt lưỡi để tạ tội.
Bồ tát Vô Trước nghe thế, can:
-Em đừng nên như vậy!
Người em kiên quyết:
-Vì sao anh biết không? Vì tội của cái lưỡi này quá lớn, nên em nhất định phải cắt bỏ nó.
Người anh ôn tồn:
-Ví như không cẩn thận bị trượt té xuống đất, nếu em muốn đứng dậy vẫn phải nương vào sức đất phải không? Em không thể nào ngã xuống đất mà không đứng dậy, khi em muốn đứng dậy thì chỉ cần dùng tay chống xuống đất là đứng dậy được. Trước đây em nhờ vào cái lưỡi ấy để ca ngợi Tiểu thừa, hủy báng Đại thừa thì hôm nay em cũng có thể dùng lại ba tấc lưỡi đó để ca ngợi Đại thừa!
Nghe anh nói cũng có lý nên Bồ tát Thế Thân thôi không đòi cắt lưỡi nữa . Sau đó, ngài vào núi tu hành, học tập kinh điển Đại thừa, trước tác bộ Thập Địa Luận. Ngày bộ Thập Địa Luận hoàn thành, trái đất chấn động, đồng thời miệng Ngài cũng phát ra hào quang. Lúc ấy, Quốc vương đến thăm Ngài, hỏi:
-Có phải Ngài đã chứng quả A-la-hán rồi chăng?
-Không, tôi không chứng quả A-la-hán, Bồ-tát Thế Thân trả lời.
-Ngài không chứng quả A-la-hán thì tại sao trái đất lại chấn động và miệng phát ra hào quang?
-Do vì lúc trẻ tôi học tập Tiểu thừa mà hủy báng Đại thừa, nay tôi đổi sang học Kinh Hoa Nghiêm , trước tác bộ Thập Địa Luận, nay bộ luận đã hoàn thành, nên quả đất chấn động và miệng tôi phát ra hào quang, chứ không phải do chứng quả mới có hiện tượng này.
Quốc vương ngạc nhiên:
-Thì ra là do bộ Kinh Hoa Nghiêm này vi diệu như thế!
Nhập Bất Tư Nghì Giải Thoát Cảnh Giới: Nghĩa là đạt đến cảnh giới giải thoát bất khả tư nghì này, không thể dùng ý thức suy lường được. Vì giải thoát vốn không có cảnh giới, có cảnh giới tức chẳng phải giải thoát. Thế thì tại sao lại nói “giải thoát cảnh giới”? “Cảnh giới” chỉ là một thí dụ, căn bản vốn không có loại cảnh giới này, vì khi đạt đến giải thoát thì cái gì cũng không có nên mới gọi là giải thoát.
Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm: “Phổ Hiền”: Đạo truyền khắp vũ trụ gọi là Phổ; Đức đồng với bậc Thánh cao tột nhất gọi là Hiền (Đạo biến vũ trụ viết phổ, Đức lân cực thánh viết hiền). Ý nói đạo của Ngài truyền khắp vũ trụ, đức hạnh của Ngài tương đồng với bậc Thánh cao nhất. “Hạnh Nguyện Phẩm”: “Hạnh” là hạnh lớn mà Ngài tu hành; “nguyện” là tâm nguyện mà ngài phát khởi. Hạnh nguyện mà Bồ-tát Phổ Hiền phát ra trong khi tu hành là rất lớn, vì thế nên gọi là Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ-tát.
Trong Phật giáo có bốn vị Bồ-tát lớn: Bồ-tát Văn Thù là vị có trí tuệ đệ nhất trong hàng Bồ-tát, Bồ-tát Địa Tạng là nguyện lực đệ nhất, Bồ-tát Quán Âm là từ bi đệ nhất, Bồ-tát Phổ Hiền là hạnh môn đệ nhất. Phàm Phật thuyết pháp là do đệ tử thỉnh cầu Ngài nói pháp. Biển Thế Giới Hoa Tạng (Hoa Tạng Thế Giới Hải [1] ) lấy Kinh Hoa Nghiêm là chủ, vị đứng ra thỉnh thuyết bộ kinh này là Bồ-tát Phổ Hiền. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa do Ngài Xá-lợi-phất thỉnh thuyết, Kinh Lăng Nghiêm do Tôn giả A-nan thỉnh thuyết. Người đứng ra thỉnh pháp còn gọi là chúng đương cơ, chúng đương cơ của bộ Kinh Hoa Nghiêm là Bồ-tát Phổ Hiền.
III. GIẢI THÍCH VỀ NGƯỜI DỊCH KINH
Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Pháp sư Bát Nhã vâng chiếu dịch.
Người dịch tám mươi quyển đầu của bộ Hoa Nghiêm này là Pháp sư Thật-xoa-nan-đà. Thật-xoa-nan-đà (Siksananda) là phiên âm tiếng Phạn, dịch là Hỷ Học, nghĩa là hoan hỷ học tập. Ngài dịch bộ Kinh Hoa Nghiêm này sang tiếng Hoa vào thời Võ Tắc Thiên đời Đường. Sau khi bộ Kinh được dịch xong, Võ Tắc Thiên mộng thấy trời mưa cam lộ. Đến ngày hôm sau quả nhiên trời mưa cam lộ thật, nước mưa mang toàn vị ngọt, tượng trưng bộ Kinh Hoa Nghiêm này vô cùng quan trọng. Kinh văn dịch xong thì được Pháp sư Hiền Thủ[2] giảng giải. Khi Pháp sư giảng đến chỗ “thế giới số như vi trần”[3] thì vùng đất ấy chấn động, giảng đường và cả quả đất đều chấn động, quả đất chấn động theo sáu cách[4]. Nên chi, Võ Tắc Thiên liền phê một chiếu thư, tán thán công đức của Pháp sư Thật-xoa-nan-đà. Cho nên, cảnh giới bất khả tư nghì của Kinh Hoa Nghiêm rất nhiều, rất nhiều, nhiều đến nỗi nói không thể hết.
Phẩm này là Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã (Prajna) ở nước Kế Tân vâng chiếu dịch vào đời Đường. Kế Tân (Kubha) là tên của một nước; Tam Tạng (Tripitaka) là Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng. Kinh là chỉ cho tất cả kinh điển, Luật là giới luật, Luận là luận nghị. Người phiên dịch phẩm kinh văn này là Ngài Tam Tạng Pháp sư, tên Bát-nhã. “Pháp sư” nghĩa là “dĩ pháp vi sư”, lấy Phật Pháp làm thầy; lại cũng có nghĩa là “dĩ pháp thí nhân”, đem Phật Pháp ban bố đến mọi người. “Bát-nhã” là tiếng Phạn, dịch là trí tuệ. Vì sao không trực tiếp dịch từ Bát-nhã ra tiếng Hoa mà giữ nguyên âm Bát-nhã? Vì chữ bát-nhã thuộc loại “tôn trọng nên không phiên dịch”, là một trong năm loại theo nguyên tắc không phiên dịch[5].
“Vâng chiếu dịch”: tuân theo sắc lệnh hoàng đế phiên dịch bộ kinh này từ tiếng Phạn ra tiếng Hoa.
[1] - Biển thế giới Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm, gọi tắt là cõi Hoa Tạng, là cảnh Thật báo vô chướng ngại độ của Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. "Liên Hoa" là hoa sen, đây chỉ cho hoa sen chúa Chủng Chủng Quang Minh Nhụy Hương Tràng; hoa sen này đảm trì thế giới hải. "Tạng" chỉ cho chỗ hàm chứa hạt sen; các thế giới chủng nương nơi hương thủy hải như những hạt sen ở trong liên tạng, và chỗ y trụ của các hương thủy hải ví như liên phòng, tức là gương sen. "Trang Nghiêm" là chỉ cho các hình tướng tốt đẹp của thếgiới hải, như núi Đại Luân Vi, biển Hương Thủy, bảo địa, lầu các, ao hồ, rừng cây, vườn hoa, lưới báu, câu lơn, bảo tràng; các cảnh sắc này đã điểm tô cho cõi Hoa Tạng trở nên tráng lệ. Nói tóm lại, cõi Thật báo độ này có đại liên hoa (Nhụy Hương Tràng) bao trùm và duy trì vi trần thế giới chủng như hoa sen hàm chứa hạt sen, nên gọi là Hoa Tạng. (“Phật Học Tinh Yếu” HT. Thiền Tâm)
- Các thế giới này chia thành hai mươi tầng, phân bố thứ lớp từ thấp đến cao. Cõi Ta Bà (Saha) của chúng ta là tầng thế giới thứ 13 trong biển thế giới Hoa Tạng. Kinh Hoa Nghiêm: “Cõi Phật trung ương của tầng thế giới thứ mười ba tên là Ta Bà, lấy chất kim cang trang nghiêm làm giới hạn, an trụ trên các phong luân. Thể tướng cõi này trống trải, trên có thiên cung trang nghiêm hư không và phủ che, xung quanh có các thế giới khác nhiều bằng số bụi nhỏ của mười ba cõi Phật vi nhiễu. Vị giáo chủ ở bản độ hiệu là Tỳ Lô Giá Na Như Lai.”.
[2] Pháp sư Hiền Thủ 賢首, còn gọi là Pháp Tạng (643-712) là một vị Cao tăng Trung Hoa , Tổ thứ ba tông Hoa Nghiêm , tự là Hiền Thủ, hiệu là Quốc Nhất Pháp sư, còn gọi là Hương Tượng Đại sư, Khương Tạng Quốc sư. Người họ Khương, gốc Khương-cư (Sogdiana), đến đời ông nội thì cả họ dời đến Trường An. Vì Ngài có công lớn trong việc hưng thịnh tông Hoa Nghiêm , nên về sau người ta gọi tông này là tông Hiền Thủ.
[3] Nguyên văn: vi trần thế giới sát hải 微塵世界剎海
[4] Sáu thứ chấn động: sáu tướng chấn động của mặt đất. Theo kinh Hoa Nghiêm 16 (bản Tân dịch), sáu tướng là động, khởi, dũng, chấn, hống và kích. “Động” là lay động không yên, “khởi” là từ thấp dần dần lên cao, “dũng” là bỗng nhiên vọt lên, ba thứ này chỉ cho hình thức địa chấn. “Chấn” là phát ra tiếng động âm ỷ, “hống” là tiếng rống mạnh mẽ của loài thú, “kích” là phát ra tiếng dội ầm ầm, ba thứ này chỉ cho âm thanh địa chấn. “Hình” (hình thức) và “thanh” (âm thanh) mỗi thứ đều có một loại, gọi là chấn động.
[5] Năm lý do không phiên dịch (Năm Loại Không Phiên Dịch - Hán: ngũ chủng bất phiên, 五種不翻):
1. Bí mật không dịch (Bí mật bất phiên): Vì tính bí mật, mầu nhiệm, ý nghĩa sâu xa của các danh tự, âm thanh bí mật, nên không dịch nghĩa. Ví dụ: đà-la-ni…
2. Nhiều nghĩa không dịch (Đa Hàm bất phiên): Một từ bao hàm nhiều nghĩa, không thể dùng một nghĩa nào để phiên dịch, nên chỉ phiên âm. Ví dụ: Bạc-già-phạm (có sáu nghĩa)...
3. Không có không dịch (Thử phương bất phiên): Ở nơi này không có, hoặc các từ đó có ý nghĩa xa lạ đối với người Trung Hoa; tức là, tên các thú vật, cây cỏvà quỷ thần đặc biệt của Ấn Độ nhưng xa lạ đối với Trung Hoa nên không phiên dịch.
Ví dụ: Mùi hương đa-ma-la-bạt (tamàlapattra) và mùi hương đa-già-la (tagara)… và các chúng sanh như Ca-lâu-la (Garuda) và Khẩn-na-la (Kimnara)…
4. Theo xưa không dịch (Thuận cổ bất phiên): Theo thông lệ từ xưa, nên không phiên dịch. Ví dụ: A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề không phải là không thể dịch được, nhưng vì từ thời Đông Hán trở về sau, các nhà phiên dịch đều để nguyên âm, vì muốn giữ lại cách thức của người xưa nên không dịch nghĩa.
5. Tôn trọng không dịch (Trang trọng bất phiên): Vì muốn cho mọi người có ý niệm tôn trọng, nên không dịch nghĩa. Ví dụ: Thích-ca Mâu-ni, Bát-nhã…
Hán dịch: Tam Tạng Sa môn Thuật Xoa Nan Đà, người nước Điền, dịch vào đời Đường.
Giảng thuật: Hòa Thượng Tuyên Hóa, Vạn Phật Thánh Thành Hoa Kỳ, giảng vào năm 1969 tại Phật Giáo Giảng Đường, SanFrancisco.
Nguồn: http://www.dharmasite.net/