;
Kinh Kalika Sutta SN 3.18 - SN 4.13
(Bài Kinh Về Mảnh Đá: Tương Ưng Bộ Kinh 3.18 và 4.13)
Hoang Phong chuyển ngữ
Bài dưới đây là một trong loạt những bài thuộc chủ đề "Quan điểm của Phật Giáo đối với sự đau đớn và bệnh tật". Các bài trước đây là:
- Đức Phật thuyết giảng về sự đau đớn (Sallatha Sutta/Kinh về Mũi Tên/SN 36.6)
- Thái độ của người Phật Giáo đối với sự đau đớn (Ajahn Brahmavamso Mahathera)
- Cái chết là một thứ bệnh ung thư (Ajahn Liem)
- Y khoa cũng chỉ là phép luyện đan ( Khyentsé Rinpoché)
- Không nên trì hoãn sang ngày hôm sau (Eihei Dogen)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn. Lần thứ nhất khi Ngài bị ám hại và một mảnh đá đã đâm vào chân khiến Ngài bị thương, và lần thứ hai khi Ngài bị trúng thực trước khi tịch diệt.
Trường hợp thứ nhất xảy ra khi Đức Phật cũng đã trọng tuổi. Lúc bấy giờ trong tăng đoàn có một người tên là Bồ-đề Đạt-đa (Devadatta) em họ của Đức Phật, bất đồng chính kiến với Ngài về một số giới luật. Đề-bà Đạt-đa yêu cầu Đức Phật phải ban hành các giới luật thật khắt khe đối với các người xuất gia: chẳng hạn như không được ngủ trong nhà (phải ngủ dưới gốc cây hay trong các túp lều che bằng lá cây rừng), không được nhận ăn khi có người mời (chỉ ăn những gì trong bình bát do chính mình khất thực), phải ăn toàn rau trái (không được ăn thịt cá), phải sống di động (không được sống bám vào một nơi cố định)... Đức Phật không hoàn toàn chấp thuận và đưa ra một giải pháp dung hòa hơn bằng cách chỉ chấp nhận cho tăng đoàn tuân thủ các điều luật ấy trong một số hoàn cảnh nhất định nào đó với mục đích tránh mọi hình thức cực đoan. Vào thời kỳ này tăng đoàn cũng đã lớn mạnh, nhiều nhóm bắt đầu sống trà trộn với sự sinh hoạt thế tục và bám vào những nơi đông dân cư, và do đó đã đánh mất đi ít nhiều truyền thống cũng như nguyên tắc của người tu hành là phải xa lìa thế tục. Trước tình trạng đó, Đề-bà Đạt-đa đã thuyết phục được một số tỳ kheo theo về với mình và lập ra một tăng đoàn riêng. Sự chia rẽ này có thể đã đưa dần đến các âm mưu ám hại Đức Phật.
Luật Tạng (Vinaya, tiểu phẩm Cullavagga VII, 3.9) có thuật lại câu chuyện về Đề-bà Đạt-đa đã lăn một tảng đá lớn từ trên dốc cao xuống phía Đức Phật và các đệ tử của Ngài ở bên dưới. Tảng đá lăn trệch sang một bên không trúng vào Đức Phật, thế nhưng cũng có một mảnh đá vỡ đâm vào chân khiến Ngài bị thương. Trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya) có hai bài kinh nhắc đến sự kiện này và cả hai đều mang cùng một tựa như nhau là: Bài Kinh Về Mảnh Đá (Nakalika Suttta, SN 3.18 và SN 4.31). Dưới đây là bản chuyển ngữ của cả hai bài kinh trên đây và sau đó người dịch cũng sẽ xin mạn phép góp thêm vài lời ghi chú với mục đích cùng với người đọc suy tư và tìm hiểu thêm về hai bài kinh này.
1- Bài Kinh Về Mảnh Đá
(Nakalika Sutta SN 1.38)
(PTS: S i 27, CDB i 116)
Tôi từng được nghe như vầy:
Một lần Đấng Thế Tôn ngụ gần thành Vương Xá (Rajagaha) (xin lưy ý là Đức Phật luôn xa lánh các nơi đô thị, làng mạc cũng như các nơi sinh hoạt đông đúc, Ngài chỉ đi vào các nơi này để khất thực) tại khu vườn hươu Maddakucchi. Vào lúc bấy giờ Đấng Thế Tôn bị một mảnh đá đâm vào chân. Các giác cảm đau đớn cực độ trên thân xác xảy đến với Ngài - đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội - thế nhưng Ngài đã chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác (tỉnh thức/chánh niệm), minh mẫn (sampajeno/tinh tường), không một chút xao động. Ngài gấp mảnh y thượng làm tư để gối đầu (shanghati/còn gọi là tăng-già-lê, một loại áo ấm khoác bên ngoài) và nằm nghiêng về bên phải, uy nghi trong tư thế của một con sư tử, chân này gác lên chân kia, thật tỉnh giác và minh mẫn.
Bảy trăm nàng tiên (devata/nữ thiên nhân) trong đoàn Satullapa tỏa ánh hào quang chiếu sáng suốt đêm cả khu vườn hươu Maddhakucchi, họ đến gần Đức Phật vái chào và đứng sang một bên.
Sau khi đứng sang một bên và trước mặt Đấng Thế Tôn, một nàng tiên thốt lên như sau: "Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một con long xà (naga)! Mỗi khi các giác cảm đau đớn hiện lên - đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội - thì tương tự như một con long xà, Ngài chịu đựng một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động!"
Một nàng tiên khác, trước mặt Đấng Thế Tôn lại thốt lên: "Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một con sư tử! Mỗi khi các giác cảm đau đớn hiện lên - đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội - thì tương tự như một con sư tử, Ngài chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động!"
Một nàng tiên khác, trước mặt Đấng Thế Tôn lại thốt lên: "Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một ngựa giống! Mỗi khi các giác cảm đau đớn hiện lên - đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội - thì tương tự như một con ngựa giống, Ngài chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động!"
Một nàng tiên khác, trước mặt Đấng Thế Tôn lại thốt lên: "Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một con bò mộng vô song (đầu đàn)! Mỗi khi các giác cảm đau đớn hiện lên - đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội - thì tương tự như một con bò mộng vô song, Ngài chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động!"
Một nàng tiên khác, trước mặt Đấng Thế Tôn lại thốt lên: "Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một người khuân vác khoẻ mạnh! Mỗi khi các giác cảm đau đớn hiện lên - đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội - thì tương tự như một người khuân vác khoẻ mạnh, Ngài chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động!"
Một nàng tiên khác, trước mặt Đấng Thế Tôn lại thốt lên: "Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một người đã thuần thục! Mỗi khi các giác cảm đau đớn hiện lên - đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội - thì tương tự như một người đã thuần thục, Ngài chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động!"
Một nàng tiên khác, trước mặt Đấng Thế Tôn lại thốt lên: "Hãy trông kìa, một tâm thần tập trung cao độ, một tâm thức buông xả tuyệt vời - không kìềm tỏa cũng không gượng ép. Trong tâm thức đó không một sự chuyển động tâm thần nào bị trấn áp hay đè nén. Bất cứ ai nếu không trông thấy được một vị tương tự như long xà, như sư tử, như ngựa giống, như bò mộng vô song, như một người khuân vác khoẻ mạnh, một con người thuần thục, thì phải chăng đó là một kẻ đáng bị trừng phạt, nếu không muốn nói là một kẻ đui mù?"
Kệ:
Các vị Bà-la-môn dù có học thuộc cả năm bộ kinh Vệ-đà,
Dù có tuân thủ một trăm năm khổ hạnh:
Thì tâm thức họ cũng không sao đạt được sự giải thoát đích thật.
Thấp kém từ bản chất, họ nào đạt đến bến bờ bên kia.
Vướng mắc trong tham lam,
Chỉ biết tuân thủ giới luật và thực thi nghi lễ,
[Dù có]sống một trăm năm khổ hạnh:
Thì tâm thức họ cũng sẽ chẳng bao giờ đạt được sự giải thoát đích thật.
Thấp kém từ bản chất, họ nào đạt đến bến bờ bên kia.
Này những kẻ ngạo mạn, không kiềm chế được mình,
Hỡi những ai xao lãng, chìm đắm trong vô minh,
Dù có chọn nơi hoang dã, sống cuộc sống không lo nghĩ,
Thì cũng chẳng bao giờ vượt thoát được lãnh địa của Ma Vương (Mara)
Thế nhưng nếu biết từ bỏ sự ngạo mạn, tập trung vào nội tâm mình,
Thực hiện được một tâm linh tỉnh thức trong bất cứ một cảnh huống nào:
Thì khi đó nếu chọn chốn hoang vu, sống cuộc sống không lo nghĩ,
Tất sẽ vượt thoát khỏi lãnh địa của Ma Vương.
2- Bài Kinh về mảnh đá
(Sakalika Sutta SN 4.13)
(PTS: S i 110, CDB i 203)
Tôi từng được nghe như vầy:
Có một lần Đấng Thế Tôn ngụ gần thành Vương Xá (Rajagaha). Vào lúc bấy giờ Ngài bị một mảnh đá đâm vào chân. Các giác cảm đau đớn cực độ trên thân xác xảy đến với Ngài - đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội - thế nhưng Ngài đã chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác, minh mẫn (sampajano), không một chút xao động. Ngài gấp mảnh y thượng làm tư để gối đầu và nằm nghiêng về bên phải, uy nghi trong tư thế của một con sư tử, chân này gác lên chân kia, thật tỉnh giác và tinh tường.
Tên Hung Ác Ma Vương tìm đến bên Đấng Thế Tôn và xướng lên tiết thơ sau đây:
Ngài nằm đấy mơ màng, hay ngây ngất một vần thơ?
Mục đích đời mình phải chăng đã tiêu tan hết?
Cô đơn trong túp lều hẻo lánh,
Ngài ngủ vùi, sầu bi trên gương mặt?
[Đức Phật đáp lại:]
Ta nằm đây, không bàng hoàng,
Cũng chẳng ngây ngất một vần thơ!
Mục đích ta đã đạt, chẳng một chút sầu bi,
Thanh thản một mình ta trong túp lều trống vắng,
Thương chúng sinh, từ bi ăm ắp đáy lòng ta!
Kìa những kẻ mũi tên đâm vào ngực,
Tim đập dồn run lên trong hoảng hốt,
Nhưng vẫn cứ ngủ say, với mũi tên cắm trong tim.
Tại sao ta lại không ngủ được,
Khi tim ta, mũi tên kia không còn nữa?
Ta nằm nghỉ, nào có phải vì kinh hoàng đánh thức,
Lòng thanh thản, nào đâu kinh sợ một giấc nồng!
Ngày hay đêm lòng ta nào vướng bận,
Thế gian này, không một chút suy vong (không yếm thế khi nhìn vào thế gian).
Ta nằm đây thanh thản một giấc nồng.
Thương chúng sinh, từ bi ăm ắp đáy lòng ta!
Tên Hung Ác Ma Vương thất vọng và chán nản khi nhận thấy: "Thế Tôn nào có lạ gì ta, Đấng Toàn Năng quả có lạ gì ta nữa", và tức thời biến mất.
Vài lời ghi chú của người dịch
Một hình tướng cấu hợp của một cá thể luôn bị chi phối bởi quy luật tương liên và tương tác giữa mọi hiện tượng (pratityasamutpada). Trong lãnh vực tâm thần thì sự tương liên đó vận hành dựa vào sự "tiếp xúc" (phassa) giữa sáu giác quan (ngũ giác và tâm thần) với ngoại cảnh. Sự "tiếp xúc" đó sẽ đưa đến các giác cảm trên thân xác và xúc cảm trong tâm thần của cá thể ấy, qua các thể dạng thích thú, đau đớn hay trung hòa.
Dù là một vị a-la-hán, một vị bồ-tát hay một vị Phật, thì khi nào vẫn còn mang hình tướng cấu hợp thì cũng sẽ vẫn còn cảm nhận được các giác cảm trên thân xác, thế nhưng trong tâm thức họ thì không có một xúc cảm nào hiện ra. Trong cả hai bài kinh trên đây đều cho thấy Đức Phật dù bị thương nhưng không hề phát lộ một sự xao động hay đau đớn nào. Sự "tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động" của Ngài nói lên một sự tập trung tâm thần cao độ và phản ảnh một tâm thức buông xả tuyệt vời. Trong sự thanh thản đó không có một "thoáng xúc cảm nào bị kiềm tỏa hay mang tính cách gượng ép, không có một sự chuyển động tâm thần nào bị trấn áp hay dồn nén". Đấy chính là sự yên lặng của một vị Phật: một sự yên lặng tuyệt đối, từ thân xác đến ngôn từ và cả trong tâm thức, tương tự như mặt đại đương mênh mông và phẳng lặng, không một gợn sóng lăn tăn cũng không một luồng nước ngầm trong đáy nước.
Hai bài kinh trên đây - tuy vẫn được gọi là kinh - thế nhưng không phải là những lời thuyết giảng của Đức Phật, mà thật ra chỉ là những sự diễn đạt của các đệ tử về sự buông xả và yên lặng bao la đó của Vị Thầy mình, nhằm để gửi gấm cho chúng ta hôm nay.
Qua bài kinh thứ nhất (SN 3.18) họ tạo ra một quang cảnh thật thiêng liêng khi trông thấy cảnh tượng Vị Thầy mình bị thương và nằm nghỉ đêm dưới một mái lều lợp lá giữa khu vườn hươu Maddhakucchi. Bảy trăm nàng tiên hiện ra đứng hầu chung quanh mái lều, hào quang của họ tỏa sáng cả khu vườn cho đến sáng. Chữ "nàng tiên" trong bản dịch là do chữ devadata mà ra. Trong tiếng Phạn, chữ deva có nghĩa là "nam thiên nhân", chữ devadata có nghĩa là "nữ thiên nhân", nếu căn cứ vào ý nghĩa trong kinh sách thì đấy là chư thiên tái sinh qua con đường cao cả nhất của sáu nẻo luân hồi (lục đạo/sadjagati), tức có nghĩa là các chúng sinh tinh khiết nhất sống trong cõi vô sắc giới (arupa dhatu). Dịch chữ devadata là nàng tiên đồng thời cũng là cách dựa vào nền văn hóa quen thuộc của một số nước Á Châu. Trong các bản dịch sang các ngôn ngữ Tây Phương đã được tham khảo, thì chữ devadata được các dịch giả (Thanissaro Bikkhu, Bhikkhu Bodi, Michel Proulx,v.v...) giữ nguyên không dịch, bởi vì dường như là họ không tìm được một từ nào tương đương trong các ngôn ngữ "xa lạ" của họ (xem phu lục, và cũng xin nhắc thêm là Thanissaro Bikkhu và Bhikkhu Bodhi là hai nhà sư Theravada người Mỹ, và Michel Proulx là thiền sư người Pháp). Thậm chí có một bản dịch tiếng Pháp còn cho rằng chữdevadata thuộc "giống đực" tức là một nam thiên nhân (!). Trong bản dịch tiếng Việt của Hòa Thượng Thích Minh Châu thì chữ này được dịch là "quần tiên" trong trường hợp gọi chung, và "vị Thiên" trong trường hợp chỉ từng người (xem phụ lục).
Trở lại với bảy trăm nàng tiên đứng hầu Đức Phật suốt đêm thì chúng ta tất sẽ nhận thấy một chi tiết sau đây: thông thường trong các bài kinh ghi lại những lời thuyết giảng của Đức Phật thì các đệ tử tiến đến gần Ngài để vái chào, sau đó lùi lại và ngồi sang một bên. Trong bài kinh trên đây thì bảy trăm nàng tiên lùi lại và đứng sang một bên, họ không ngồi xuống như thường lệ mà đứng hầu suốt đêm và tỏa ánh hào quang sáng rực cả khu vườn.
Thật ra cách nay hơn hai mươi lăm thế kỷ, các khu vườn thời bấy giờ không phải là các công viên như ngày nay, mà thật ra chỉ là những khu rừng thưa có nhiều hươu nai sinh sống, chẳng hạn như khu vườn Maddakucchi trong hai bài kinh trên đây. Đức Phật xếp chiếc áo khoác ngoài làm tư để gối đầu và nằm xuống đất, chân này gác lên chân kia, dưới mái che của một chiếc lều không vách. Bảy trăm nàng tiên túc trực chung quanh. Rải rác trong khu vườn giữa đêm khuya còn có hàng ngàn đệ tử của Đức Phật cũng đang nằm mơ màng.
Bảy trăm quần tiên túc trực hướng nhìn vào sự tỉnh giác, minh mẫn, không một mảy may xao động của Đức Phật mà hết lòng thán phục. Họ không so sánh Đức Phật với một con long xà (naga/một loại rắn thần mà trước đây đã từng che chở cho Đức Phật đang ngồi thiền sau khi đạt được giác ngộ, giữa một cơn giông bão thật khủng khiếp đang trổi dậy), một con sư tử, một con ngựa giống, một con bò mộng, một người khuân vác, một con người thuần thục, mà đúng hơn là họ so sánh Ngài với đức tính của các con vật ấy cũng như của một người nhẫn nại và một người đã quen chịu đựng (sự yên lặng của con long xà, sự uy nghi của con sư tử, sự linh hoạt của một con ngựa giống, sức khoẻ của một con bò mộng, sự nhẫn nại của một người khuân vác, sức chịu đựng của một người thuần thục).
Nếu bài kinh thứ nhất nêu lên một quang cảnh thiêng liêng và những phẩm tính của Đức Phật thì trong bài kinh thứ hai một hung thần xuất hiện để phá khuấy Ngài trong đêm. Hung thần ấy chính là Ma Vương (Mara) hay Thần Chết, biểu trưng cho vô minh, tham lam và bám víu, đã hiện ra để nhạo báng và khinh miệt Ngài. Thế nhưng Đức Phật đã cho Ma Vương biết rằng thái độ của Ngài đối với sự đau đớn trên thân xác chỉ là sự thanh thản, an vui, không kinh sợ, cũng chẳng bàng hoàng. Ma Vương chấp nhận sự thất bại của mình và biến mất khỏi tâm thức Ngài.
Trong cả hai bài kinh có một chữ rất khó dịch, đó là chữ Pa-li sampajano. Bản tiếng Anh của Thanissaro Bikkhu dịch chữ này là alert (tỉnh táo), bản tiếng Anh của Bhikkhu Bodhi dịch làclearly comprehending (hiểu biết minh bạch), bản tiếng Pháp của Remy Zins dịch là vigilance(cảnh giác), bản tiếng Việt của Hòa Thượng Thích Minh Châu thì dịch là nhẫn chịu (?), riêng chỉ có bản tiếng Pháp của thiền sư Michel Proulx thì tỏ ra cẩn thận hơn cả, chẳng qua vì dịch giả này đã giữ nguyên chữ Pa-li sampajano và không dịch (xem phụ lục).
Chữ sampajano là một tĩnh từ, danh từ là sampajanna (tiếng Phạn là samprajanya). Trong chữ sampajanna có chữ janna là một chữ rất quen thuộc có nghĩa là trí tuệ. Chữsampajano trên phương diện tổng quát có nghĩa là hiểu biết minh bạch, chính xác và tinh tường. Trong bài chuyển ngữ trên đây xin được tạm dịch chữ này là minh mẫn. Chữ sampajanocũng thấy xuất hiện trong nhiều bài kinh khác do Đức Phật thuyết giảng, đặc biệt nhất là trong Bài Kinh Về Sự Tỉnh Giác (Sata Sutta/Kinh về Tâm Linh Tỉnh Thức hay Chánh Niệm..., SN 47.35) chữ này được hiểu như là sự quán nhận minh bạch, tinh tường và cảnh giác về vô thường)
Sở dĩ mạn phép dài dòng như trên đây là chỉ nhằm lưu ý người đọc rằng nếu muốn hiểu được một bài kinh, thì phải đặt bài kinh ấy vào bối cảnh của nó, tức là vào khung cảnh lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ và tư tưởng của những người sống trong thung lũng sông Hằng cách nay hai mươi lăm thế kỷ. Đối với các kinh sách xuất hiện muộn - tức là các kinh sách Đại Thừa - cũng vậy, cũng cần phải hiểu theo từng thời đại và từng địa phương (chẳng hạn như các kinh sách đại thừa Ấn Độ của Long Thụ, Vô Trước, Thế Thân... vào các thế kỷ thứ II-IV; các kinh sách đại thừa và các bản dịch của Trung Quốc vào các thế kỷ thứ II-VII; các kinh Kim Cương Thừa trước tác vào các thế kỷ thứ VIII-X, v.v...)
Các tác phẩm của các dịch giả Trung Quốc như Pháp Hiển (thế kỷ thứ IV), Cưu-ma La-thập (thế kỷ IV-V), Huyền Trang (thế kỷ thứ VII)...và của các nhà sư hiện đại như Bhikkhu Bodhi, Thanassaro Bodhi, Michel Proulx, Thích Minh Châu... cũng chỉ là những nổ lực giúp chúng ta tìm hiểu những gì tinh túy trong các bài kinh đã được học thuộc và lưu truyền từ hơn hai mươi lăm thế kỷ trước. Nêu lên sự kiện này là nhằm nhắc nhở chúng ta phải cẩn thận và lưu ý đến các hình thức biến dạng của kinh sách có thể xảy ra xuyên qua ngôn từ, văn hóa, thời đại và địa phương, cũng như các ảnh hưởng phát sinh từ xúc cảm, quan điểm và khuynh hướng cá nhân của các người dịch.
Do đó các bài kệ trong hai bài kinh trên đây cũng có thể được hiểu như là những nỗ lực của những thế hệ người xưa nhằm truyền đạt và tồn lưu tư tưởng của Đấng Thế Tôn, có nghĩa là phản ảnh ít nhiều tính cách diễn đạt và cách tường thuật của họ. Tư Tưởng và Trí Tuệ của Đức Phật vượt lên trên các bài kệ - tức là các cách diễn đạt và tường thuật ấy - rất nhiều và rất xa. Hai bài kinh trên đây cũng thế, cũng chỉ là một sự cố gắng, một nỗ lực nhằm nói lên sự "yên lặng mênh mông" trong tâm thức của Đức Phật và sự "thanh thản vô biên" tỏa ra từ toàn thân Ngài trước sự đau đớn mang lại từ thân xác cấu hợp và vô thường của Ngài.
Nhiều năm sau sự kiện trên đây thì một lần nữa Đức Phật phải chịu thêm một sự đau đớn cuối cùng khi bị trúng thực sau một bữa ăn. Trong lần đau đớn cuối cùng này thì Ngài cũng không hề thốt lên một lời than vãn nào mà chỉ nói với các đệ tử đang ngồi chung quanh những lời dặn dò cuối cùng thật trong sáng, chân tình và thiết tha (người đọc có thể xem thêm bài viết "Những lời cuối cùng của Đức Phật" trên Thư Viện Hoa Sen).
Sau hết là phần phụ lục dưới đây sẽ trích dẫn các bản gốc bằng tiếng Pa-li và các bản Việt dịch của H.T. Thích Minh Châu về hai bài kinh trên đây. Ngoài ra một bản dịch tiếng Anh và một bản dịch tiếng Pháp của mỗi bài kinh cũng sẽ được chọn để kèm theo, hầu giúp người đọc tham khảo thêm nếu cần.
Bures-Sur-Yvette, 28.04.14
Hoang Phong chuyển ngữ
PHỤ LỤC
A- Kinh Nakalika Sutta SN 1.38
1- Bản gốc tiếng Pa-li
Evaṃ me sutaṃ— ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati maddakucchismiṃ migadāye. Tena kho pana samayena bhagavato pādo sakalikāya khato hoti. Bhusā sudaṃ bhagavato vedanā vattanti sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā; tā sudaṃ bhagavā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno. Atha kho bhagavā catugguṇaṃ saṅghāṭiṃ paññāpetvā dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappeti pāde pādaṃ accādhāya sato sampajāno.
Atha kho sattasatā satullapakāyikā devatāyo abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ maddakucchiṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho ekā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “nāgo vata, bho, samaṇo gotamo; nāgavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.
Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “sīho vata, bho, samaṇo gotamo; sīhavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.
Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “ājānīyo vata, bho, samaṇo gotamo; ājānīyavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.
Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “nisabho vata, bho, samaṇo gotamo; nisabhavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.
Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “dhorayho vata, bho, samaṇo gotamo; dhorayhavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.
Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “danto vata, bho, samaṇo gotamo; dantavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.
Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “passa samādhiṃ subhāvitaṃ cittañca suvimuttaṃ, na cābhinataṃ na cāpanataṃ na ca sasaṅkhāraniggayhavāritagataṃ. Yo evarūpaṃ purisanāgaṃ purisasīhaṃ purisaājānīyaṃ purisanisabhaṃ purisadhorayhaṃ purisadantaṃ atikkamitabbaṃ maññeyya kimaññatra adassanā”ti.
“Pañcavedā sataṃ samaṃ,
Tapassī brāhmaṇā caraṃ;
Cittañca nesaṃ na sammā vimuttaṃ,
Hīnattharūpā na pāraṅgamā te.
Taṇhādhipannā vatasīlabaddhā,
Lūkhaṃ tapaṃ vassasataṃ carantā;
Cittañca nesaṃ na sammā vimuttaṃ,
Hīnattharūpā na pāraṅgamā te.
Na mānakāmassa damo idhatthi,
Na monamatthi asamāhitassa;
Eko araññe viharaṃ pamatto,
Na maccudheyyassa tareyya pāran”ti.
“Mānaṃ pahāya susamāhitatto,
Sucetaso sabbadhi vippamutto;
Eko araññe viharamappamatto,
Sa maccudheyyassa tareyya pāran”ti.
2- Bản Việt dịch của H.T. Thích Minh Châu
Kinh Miếng Đá Vụn
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Rājagaha (Vương Xá), tại vườn Nai (Maddakucchi)
Lúc bấy giờ, chân Thế Tôn bị miếng đá bể đâm phải. Cảm thọ Thế Tôn mãnh liệt. Thân cảm thọ khổ đau, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú. Nhưng Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn chịu, không phiền não.
Rồi Thế Tôn cho trải áo Sanghàti (Tăng-già-lê) xếp tư lại, nằm xuống phía hông bên phải như dáng điệu con sư tử, chân đặt trên chân, chánh niệm tỉnh giác.
Rồi bảy trăm quần tiên Satullapakàyikà, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Maddakucchi, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
Ðứng một bên, một vị Thiên đọc lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
—Sa-môn Gotama thật là bậc Long tượng. Và với tư cách Long tượng, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, đau khổ, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú, Ngài chánh niệm tỉnh giác, nhẫn chịu, không có phiền não.
Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
—Sa-môn Gotama thật là bậc Sư tử. Và với tư cách Sư tử, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau … không có phiền não.
Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
—Sa-môn Gotama thật là Lương tuấn mã. Và với tư cách Lương tuấn mã, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau … không có phiền não.
Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
—Sa-môn Gotama thật là bậc Ngưu vương. Và với tư cách Ngưu vương, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau … không có phiền não.
Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
—Sa-môn Gotama thật là bậc Nhẫn nại Kiên cường. Và với tư cách bậc Nhẫn nại Kiên cường, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau … không có phiền não.
Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
—Sa-môn Gotama thật là một bậc Khéo điều phục. Và với tư cách là một bậc Khéo điều phục, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau … không có phiền não.
Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:
—Hãy xem tâm của Ngài khéo được tu tập Thiền định và giải thoát, không có nổi lên, không có chìm xuống, mọi hành động được tác thành, không có ai kích thích. Ai có thể nghĩ mình đi ngược lại một Long tượng như vậy, một bậc Sư tử như vậy, một bậc Lương tuấn mã như vậy, một bậc Ngưu vương như vậy, một bậc Nhẫn nại Kiên cường như vậy, một bậc Nhiếp phục như vậy, trừ phi là một người mù.
Các vị Bà-la-môn,
Tinh thông năm Vệ-đà,
Dầu tu tập khổ hạnh,
Cho đến hàng trăm năm,
Tâm họ không có thể,
Chơn chánh được giải thoát.
Tự tánh quá hạ liệt,
Không đến bờ bên kia,
Bị khát ái chi phối,
Bị giới cấm trói buộc,
Dầu tu tập khổ hạnh,
Cho đến hàng trăm năm,
Tâm họ không có thể,
Chơn chánh được giải thoát.
Tự tánh quá hạ liệt,
Không đến bờ bên kia.
Ở đời không nhiếp phục,
Kiêu mạn cùng các dục,
Tâm không được an tịnh,
Không tu tập Thiền định.
Ở trong rừng cô độc,
Nhưng tâm tư phóng dật,
Vị ấy khó vượt khỏi,
Sự chinh phục tử thần.
Nhiếp phục được kiêu mạn,
Khéo tu tập Thiền định,
Tâm tư khéo an tịnh,
Giải thoát được viên mãn,
Ở trong rừng cô độc,
Tâm tư không phóng dật,
Vị ấy khéo vượt khỏi,
Sự chinh phục tử thần.
3- Bản dịch tiếng Anh của Thanassaro Bikkhu (1999)
I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Rajagaha at the Maddakucchi Deer Reserve. Now at that time his foot had been pierced by a stone sliver. Excruciating were the bodily feelings that developed within him — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — but he endured them mindful, alert, & unperturbed. Having had his outer robe folded in four and laid out, he lay down on his right side in the lion's posture, with one foot placed on top of the other, mindful & alert.
Then 700 devatas from the Satullapa retinue, in the far extreme of the night, their extreme radiance lighting up the entirety of Maddakucchi, went to the Blessed One. On arrival, having bowed down to him, they stood to one side.
As she was standing there, one of the devatas exclaimed in the Blessed One's presence: "What a naga is Gotama the contemplative! And like a naga, when bodily feelings have arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — he endures them mindful, alert, & unperturbed!"
Then another devata exclaimed in the Blessed One's presence: "What a lion is Gotama the contemplative! And like a lion, when bodily feelings have arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — he endures them mindful, alert, & unperturbed!"
Then another devata exclaimed in the Blessed One's presence: "What a thoroughbred is Gotama the contemplative! And like a thoroughbred, when bodily feelings have arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — he endures them mindful, alert, & unperturbed!"
Then another devata exclaimed in the Blessed One's presence: "What a peerless bull is Gotama the contemplative! And like a peerless bull, when bodily feelings have arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — he endures them mindful, alert, & unperturbed!"
Then another devata exclaimed in the Blessed One's presence: "What a strong burden-carrier is Gotama the contemplative! And like a strong burden-carrier, when bodily feelings have arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — he endures them mindful, alert, & unperturbed!"
Then another devata exclaimed in the Blessed One's presence: "What a tamed one is Gotama the contemplative! And like a tamed one, when bodily feelings have arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — he endures them mindful, alert, & unperturbed!"
Then another devata exclaimed in the Blessed One's presence: "See a concentration well-developed, a mind well-released — neither pressed down nor forced back, nor with mental fabrication kept blocked or suppressed. Whoever would think that such a naga of a man, lion of a man, thoroughbred of a man, peerless bull of a man, strong burden-carrier of a man, such a tamed man should be violated: what else is that if not blindness?"
Five-Veda Brahmans, living austerely for 100 years: Their minds are not rightly released. Lowly by nature, they've not gone beyond. Overpowered by craving, bound up in precepts & practices, performing wretched austerities for 100 years: Their minds are not rightly released. Lowly by nature, they've not gone beyond. For one fond of conceit, there's no taming; for one uncentered, no sagacity. Though alone in the wilderness, if one lives heedlessly, one won't cross over, beyond Mara's sway. But having abandoned conceit, well-centered within, with right awareness everywhere fully released, alone in the wilderness, heedfully living, one will cross over, beyond Mara's sway.
4- Bản dịch tiếng Pháp của Michel Proulx
đề bà đạt đa Thế tôn thành vương xá bhagavā