nguoiphattu.com Nói một cách khác là các nỗ lực của khoa học gia uyên bác ngày nay với những khối óc thật thông minh, xuất thân từ những trường đại học danh tiếng nhất thế giới, được trang bị bởi các kỹ thuật hiện đại và tinh xảo nhất chẳng hạn như máy chụp hình não bộ bằng từ tính, cũng chỉ là để đẩy một cánh cửa mà Đức Phật đã mở sẵn cho chúng ta đã hơn hai mươi lăm thế kỷ trước.
Lời giới thiệu của người dịch: Trong những bài trước đây về chủ đề "Quan điểm Phật
Giáo đối với sự khổ đau và bệnh tật" chúng ta đã có dịp tìm hiểu một vài
khía cạnh về vấn đề này trong kinh sách và theo quan điểm của một số nhà tu
hành thuộc các tông phái và học phái khác nhau.
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào
một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến
ngày nay. Bài viết mang tựa là Buddhism's
Pain Relief do một học giả Phật Giáo là Rick Heller viết và đã được phổ
biến vào năm 2010 (có thể xem bản gốc tiếng Anh trên mạng internet : http://palousemindfulness.com/docs/buddhism-pain.pdf).
Bài này cũng đã được một số trang web về Phật Giáo và về Tâm Lý Học đăng lại,
và đặc biệt nhất là đã được hội thiền Daisin (Đại Tâm) ở Pháp rút ngắn và chuyển
sang tiếng Pháp trên trang web của hội (http://www.larbredeleveil.org/daishin/bulletin/spip.php?article419)
năm 2012, với tựa đề là Douleurs,
Souffrance et Enseignements du Bouddha (Giáo
huấn của Đức Phật về sự đau đớn và khổ đau). Trong bài rút ngắn này, các
đoạn mang nặng tính cách chuyên môn và kỹ thuật đã bị cắt bớt, phải chăng là nhằm
để thích ứng với một số đông người đọc? Dầu sao thì bài rút ngắn bằng tiếng
Pháp này đã đánh mất đi đôi chút mạch lạc và tinh thần khoa học của bài viết. Do đó bài chuyển ngữ sang tiếng Việt dưới đây được
dựa vào toàn bộ bản gốc tiếng Anh của Rich Heller.
Tác giả Rick Heller tốt nghiệp về ngành báo chí tại đại
học Boston, sau đó ông học thêm và tốt nghiệp về các ngành Tâm Lý Học và Thần
Kinh Học tại các đại học Harvard và MIT. Ông viết cho nhiều báo chí và các trang
web Phật Giáo cũng như Tâm Lý Học và Thần Kinh Học ở Mỹ, và là chủ bút của tập
san The New Humanism (Nền Nhân Bản Mới) của đại học Harvard. Đồng
thời ông cũng là thành viên và sáng lập viên của nhiều hội thiền, nhất là tại một
vài đại học danh tiếng ở Mỹ, và điều này phải chăng chứng tỏ ông cũng là một
người hành thiền chuyên cần. Ông cũng có một trang web riêng mang tên là Seeing the roses (Nhìn những cánh hoa hồng) (www.seeingtheroses.org).
Sau phần chuyển ngữ thì người dịch cũng xin mạn phép đưa
ra một vài ghi chú nhỏ liên quan đến vài khía cạnh trong bài viết này. Tác giả
Rick Heller đã trích dẫn khá nhiều các công trình khảo cứu của hơn mười học
giả, chuyên gia và khoa học gia khác, do đó người dịch cũng xin mạn phép trình
bày trong phần phụ lục chân dung và vài hàng tiểu sử của các vị này nhằm giúp người
đọc cảm nhận được chút ít về tầm ảnh hưởng của Phật Giáo trong nền văn hóa duy
lý của thế giới Tây Phương ngày nay.
Giáo
huấn của Đức Phật về sự đau đớn và khổ đau Rick Heller (1) Nhiều tôn giáo xem
trọng phép nội quan (introspection/phép quan sát nội tâm của chính mình)
thế nhưng các khoa học gia thì không tin điều này cho lắm . Đối với những gì mang
tính cách chủ quan và không mang ra cân đo được thì quý vị có tin là thật hay không?
Dầu sao đi nữa thì sự quán thấy sâu xa của Đức Phật cũng đã phát xuất từ sức
mạnh nội quan của chính Ngài. Cho mãi đến gần đây, sự quán thấy ấy vẫn còn thuộc
vào một lãnh vực vượt ra ngoài khả năng kiểm chứng của khoa học. Thế nhưng ngày
nay các tiến bộ kỹ thuật giúp ghi nhận sự vận hành của não bộ bằng hình ảnh MRI
(Magnetic Resonance
Imaging/IRM/Imagerie par Résonance Magnétique/ Kỹ thuật Y Khoa ghi nhận bằng hình
ảnh các cơ quan trong cơ thể cũng như sự vận hành của não bộ dựa vào nguyên tắc
cộng hưởng từ tính) có thể giúp kiểm chứng được các tác động của
phép nội quan trên phương diện khoa học, và đồng thời cũng giúp thẩm định các kết
quả mang lại từ phép nội quan, song song với các phương pháp trắc nghiệm mang
tính cách khách quan hơn.
Bốn Sự Thật Cao Quý là một trong số các lời giáo huấn đầu
tiên do Đức Phật đưa ra sau khi đạt được Giác Ngộ và ba Sự Thật đầu tiên trong
số bốn Sự Thật này là: tính cách cùng khắp của khổ đau, nguồn gốc phát sinh của
nó và sự chấm dứt của nó. Tất cả Ba Sự Thật này ngày nay đã được chứng minh là
đúng thật một cách dứt khoát bởi các kết quả khảo cứu do khoa Thần Kinh Học
mang lại. Điều đáng lưu ý hơn hết là quan điểm do Đức Phật nêu lên về tính cách
kết hợp giữa khổ đau [trong tâm thần] và các giác cảm đau đớn trên thân xác chẳng
những vô cùng chính xác mà còn có thể xem như tiến bộhơn nhiều so với các quan điểm của thế giới Tây Phương về vấn đề
này - nhất là đối với các chủ thuyết khoa học đã được đưa ra vào thập niên 1960
(nay đã lỗi
thời).
Trong vòng năm mươi năm gần đây, nhất là trong thập
niên sau cùng, các khoa học gia nghiên cứu về não bộ đã dồn mọi nỗ lực trong
việc tìm hiểu nguyên nhân của khổ đau là gì, và cũng thật hết sức bất ngờ là
những gì mà họ khám phá ra hoàn toàn đúng với khái niệm về hai mũi tên mà Đức
Phật đã nêu lên nhằm chuyển tải một phương pháp vô cùng khéo léo giúp chúng ta đối
đầu với sự đau đớn trên thân xác. Đức Phật giảng rằng sự đau đớn trên thân xác
cũng tương tự như bị một mũi tên đâm vào người. Chẳng hạn như một người nào đó dù
không vượt qua được các giác cảm đau đớn trên thân xác thì cũng chỉ cảm thấy
một mũi tên đâm vào người thế thôi. Thế nhưng thông thường thì hầu hết mọi
người trong chúng ta lại ghép thêm vào sự đau đớn ấy những thứ khổ đau khác thuộc
vào lãnh vực xúc cảm. Những nỗi kinh hoàng do sự đau đớn trên thân xác gây ra
có thể xem như là bị một mũi tên thứ hai bắn trúng.
Thông
thường chúng ta cảm nhận sự đau đớn xảy ra trên thân xác như là một hiện tượng đơn
thuần, thế nhưng sự đau đớn ấy thật ra là một sự kết hợp gồm nhiều thành phần
khác nhau, ngoài các giác cảm về sự đau đớn ra còn có cả sự thù ghét [sự đau
đớn ấy nữa] mà chúng ta gọi là khổ đau. Sự thù ghét đó không những chỉ gây ra thêm
khổ đau - tức là mũi tên thứ hai - mà còn cho thấy ngày càng rõ ràng hơn là
thái độ của người bị trúng tên cũng có thể tạo ra các tác động ảnh hưởng đến cả
mũi tên thứ nhất, tức là đối với những giác cảm đau đớn trên thân xác. Ronald Siegel (2) (xem phụ lục)
một Phật tử trung kiên và cũng là Bác Sĩ tâm thần thuộc phân khoa trị liệu của
Trường Đại Học Y Khoa Harvard (Harvard Medical School), cho biết rằng phép
luyện tập tâm linh tỉnh thức (mindfulness/tỉnh giác/chánh niệm...) chẳng những
có thể làm nhẹ bớt khổ đau, mà trong một số trường hợp còn có thể là giảm bớt số
lượng cảm nhận cả về sự đau đớn trên thân xác nữa. Ngoài ra ông cũng là một
chuyên gia chữa trị các chứng đau lưng mãn tính, và theo ông thì hầu hết các
chứng đau đớn kinh niên này là do các cơ bắp ở lưng bị căng thẳng và không nhất
thiết là do tình trạng bất quân bình của cơ thể gây ra. Đau lưng cũng như nhiều
triệu chứng đau đớn khác thường là do các sự rối loạn [tâm thần] gây ra, đấy là
hậu quả mang lại bởi sự níu kéo của một sợi dây thòng lọng tạo ra bởi các tư
duy tiêu cực và sự sợ hãi, và đã khiến cho các cơ bắp bị co thắt. Ronald Siegel cho biết: "Mỗi khi cảm nhận được một
cảm giác đau đớn trên thân thể mà chúng ta nghĩ rằng nguyên nhân là do một sự
chấn thương gây ra, thì tức khắc chúng ta sẽ hướng tất cả sự chú tâm của mình
vào đúng chỗ ấy. Sự kiện dồn mọi sự lo lắng vào chỗ đau chỉ khiến cho các giác cảm
đau đớn càng gia tăng thêm mà thôi. Sự sợ hãi chính là nguyên nhân khiến cho tình
trạng bất an kéo dài".
Ronald Siegel cho rằng đối với các trường hợp này thì chỉ
cần thay đổi thái độ (tức không dồn sự chú tâm vào sự đau đớn) thì cũng
đủ khiến cho khổ đau và cả các giác cảm đau đớn do cơ bắp co thắt phải giảm
xuống. Ông cho biết thêm: "Nếu nhìn thẳng vào các giác cảm tạo ra sự sợ hãi
cho mình và thành thật nói lên là mình "đồng ý" với chúng, thì toàn
bộ các phản ứng thù ghét (oán giận, sợ hãi)tất sẽ giảm xuống ngay".
Ronald Siegel khuyên những người thường hay cảm thấy đau
đớn nhưng không biết nguyên nhân là gì, trước hết nên đi khám bác sĩ xem sự đau
đớn ấy có phải là triệu chứng của một căn bệnh ngặt nghèo nào đó hay không. Nếu
bác sĩ không tìm thấy gì bất bình thường cần phải chữa trị, và các cơn đau nhức
cũng như các giác cảm khó chịu vẫn cứ tiếp tục hành hạ mình, thì phương pháp
chữa trị bằng phép luyện tập tâm linh tỉnh thức (tỉnh giác/chánh niệm, nói chung là các phép
hành thiền) sẽ mang lại hiệu quả.
Dầu sao đi nữa thì đấy cũng không phải là một phương pháp
vạn năng. Thật cũng khá trớ trêu, trước đây chính Ronald Siegel - lúc đó cũng đã
là một người tu tập Phật Giáo trung kiên - lại bị đau lưng gần như liệt giường
trong suốt nhiều tháng liền. Theo những gì trong quyển sách của ông mang tựa là
"Back Sense"(Giác Cảm của Lưng) cho biết thì chính những
cơn đau lưng của ông trước đây đã giúp ông khám phá ra phương pháp chữa trị
chứng bệnh này và mang lại cho ông một cuộc sống bình thường. Và đấy cũng là
phương pháp mà hiện nay ông đang quảng bá. Ông cho biết: "Đấy là cách cứ
để mặc cho sự đau đớn xâm chiếm mình, dù là đang trong lúc hành thiền cũng thế".
Ông nói thêm: "Trước đây tôi cũng đã cố gắng ngồi thiền trong lúc sự đau
đớn đang hành hạ, thế nhưng trong những lúc ấy tôi cứ nghĩ rằng nếu không cố
gắng ngồi yên và cứ cử động thì sẽ khiến mình bị chấn thương thêm" (câu này có nghĩa
là nếu "gồng mình" ngồi cho thật yên thì đấy chỉ là cách khiến cho
mình càng cảm thấy đau đớn nhiều hơn. Ngồi thiền là cách hòa mình với sự chuyển
động tự nhiên trên thân xác và trong tâm thức mình, đồng thời phát động sự chú
tâm và buông xả).
Phản ứng sai lầm trên đây chỉ khiến cho sự đau đớn kéo dài
thêm. Ronald Siegel khẳng định như sau: "Vì thế nên sự hiểu biết đúng đắn (về phép hành
thiền) thật hết sức quan trọng. Sở dĩ việc tu tập của tôi đã mang
lại hiệu quả ấy là nhờ tôi đã nhận thấy được nguyên nhân thật sự là gì" (sợ hãi sự đau đớn
và tìm cách cưỡng lại chỉ là cách làm cho sự đau đớn gia tăng thêm).
Quả cũng lạ là chúng ta có thể cảm thấy đau đớn thật dữ
dội nhưng lại chẳng có bệnh tật gì cả. Trong thế giới Tây Phương, và cho mãi
đến gần đây, thì sự đau đớn vẫn còn được xem như là một dấu hiệu cảnh báo có
một cơ quan nào đó trong cơ thể bị chấn thương, và một cơn đau thật gay gắt là
dấu hiệu cho biết là có một sự chấn thương trầm trọng hơn nữa. Mô hình này còn được
gọi là thuyết đặc thù[i] (specificity
theory) được xây dựng dựa vào các quan điểm triết học do triết gia người Pháp
là René Decartes nêu lên. Thuyết này bắt đầu bị lung lay sau Thế Chiến Thứ II, nguyên
nhân là do một số nhận xét của một vị bác sĩ gây mê trong Quân Lực Hoa Kỳ là
Henry K. Beecher (3) tốt nghiệp tại Đại Học Y Khoa Harvard, nêu lên về trường
hợp của một số binh sĩ bị thương rất nặng trong các trận chiến, thế nhưng thật
hết sức lạ lùng là họ tỏ ra không đau đớn quá đáng vì các vết thương mà họ đang
phải chịu đựng.
Người đầu đàn hiện nay trong việc nghiên cứu về sự đau
đớn là Ronald Melzack (4), một khảo cứu gia về tâm lý học tại Đại Học McGill Gia
Nã Đại. Năm 1960, Ronald Melzack cùng với một bác sĩ giải phẫu thần kinh là Kenneth
Casey (5), nêu lên quan điểm cho rằng sự cảm nhận đau đớn gồm có hai thành phần
khác nhau, một thành phần là giác cảm và một thành phần là xúc cảm (Đức Phật đã nói
đến hai mũi tên từ hơn hai mươi lăm thế kỷ trước). Đồng thời Ronald Melzach
cũng phối hợp với một đồng sự khác của mình là Patrick Wall (6) tốt nghiệp trường
MIT (Massachusetts Institute of Technology Hoa Kỳ) đưa ra một học thuyết gọi là
"cổng kiểm soát" (gate control theory), nhằm giải thích tại sao sự
đau đớn lại được khuếch đại thêm song song với sự gia tăng của tổng lượng (mức độ)
của sự chú tâm hướng vào sự đau đớn ấy (càng chú ý đến sự đau đớn thì càng cảm thấy đau đớn nhiều
hơn. Trên phương diện tâm thần cũng thế, càng nghĩ đến hận thù thì chỉ là cách
nuôi dưỡng nó ngày càng lớn mạnh hơn..., đến một ngày nào đó nó sẽ bùng lên và mang
lại mọi thứ tai hại cho mình và cho cả người khác. So với sự chú tâm vào chỗ
đau trên cơ thể thì sự chú tâm vào hận thù trong tâm thức sẽ nguy hiểm hơn
nhiều).
Sở dĩ Ronald Melzack khám phá ra được sự khác biệt thật
tinh tế giữa sự đau đớn dưới hình thức giác cảm và sự khổ đau [dưới hình thức
xúc cảm trong tâm thần] là nhờ vào việc phân tích các thuật ngữ mà các bệnh
nhân của ông sử dụng nhằm nói lên sự đau đớn của họ, chẳng hạn họ sử dụng các
từ như "bắn" (shooting) hay "co rút" (cramping) để chỉ các
phẩm tính của giác cảm, hoặc các từ như "trừng phạt" (punishing) hay
"làm khiếp sợ" (terrifying) để chỉ các phản ứng xúc cảm. Nhằm thiết
lập bảng liệt kê và hệ thống hóa các từ chuyên biệt trên đây Ronald Melzack đã căn
cứ vào Bảng Câu Hỏi Về Sự Đau Đớn do đại học McGill thiết kế (các câu trả lời
của bệnh nhân về các câu hỏi được quy định sẵn trong "Bảng Câu Hỏi" sẽ
giúp chẩn đoán tình trạng sức khoẻ tâm lý của họ) và đồng thời cũng
dựa vào khái niệm về sự cảm nhận mang tính cách đa phương của sự đau đớn (giác cảm đau đớn
và xúc cảm khổ đau).
Các công cuộc nghiên cứu được thực hiện sau đó đã xác
nhận giả thuyết của Ronald Melzack nêu lên bản chất cấu hợp (giác cảm và xúc
cảm) của sự đau đớn là đúng. Các khoa học gia ngày nay không còn nói
đến "trung tâm cảm nhận sự đau đớn" ("pain center") trong
não bộ nữa mà gọi là "vùng tập trung sự cảm nhận đau đớn" ("pain
matrix"), nhằm nói lên là có nhiều vùng khác nhau trong não bộ mang chức
năng cảm nhận sự đau đớn (não bộ không phân chia thành các "trung tâm" cảm
nhận độc lập mà được xác định thành từng "vùng" hay "khu
vực" cùng tương tác và trao đổi tín hiệu với nhau). Các
đường dây thần kinh dẫn truyền các tín hiệu đau đớn từ xương sống lên não bộ đến
một điểm tỏa nhánh [của các dây thần kinh] thật quan trọng gọi là "đồi
não" (thalamus/
cấu trúc chất xám thuộc vùng trung tâm não bộ, giữ vai trò tiếp vận các tín
hiệu giác cảm, điều hòa tri thức, sự tỉnh giác, giấc ngủ...). Bắt
đầu từ điểm này các tín hiệu đau đớn di chuyển dọc theo một con đường đưa đến
một vùng gọi là "cortex somato-sensoriel" (vùng vỏ não giữ chức năng cảm nhận về thân
xác), là một vùng của não bộ cất chứa bản đồ của cơ thể (một vùng gồm các
tế bào thần kinh cảm nhận và chuyển vận các tín hiệu đưa đến từ mặt ngoài của
thân thể). Vùng này sẽ ghi nhận các giác cảm đau đớn và cho biết là sự
đau đớn ấy xảy ra ở chỗ nào [trên cơ
thể]. Một con đường dẫn truyền khác của vùng "đồi não" (thalamus) đưa
đến một vùng vỏ não khác gọi là "cingulate cortex" (một vùng được xem
là liên hệ đến sự cảm nhận mang tính cách chủ quan về sự đau đớn).
Vùng này giữ vai trò cảm nhận thể dạng không thích thú mang lại bởi sự đau đớn
- nói cách khác là cho biết mình đang bị chấn thương. Thật hết sức lạ, một người
bị chấn thương ở vùng "cingulate cortex" (giữ chức năng cảm nhận sự đau đớn chủ quan) thường
kêu đau nhưng [cơ thể] không hề bị chấn thương. Điều này cho thấy là khi nào chú
tâm thì người này mới nhận ra các giác cảm trên cơ thể liên quan đến sự đau đớn
ấy (các giác cảm
này chỉ mang tính cách "tưởng tượng", bởi vì vùng cingulate cortex bị
chấn thương không còn giữ được chức năng bình thường của nó). Thế
nhưng đối với người này thì sự đau đớn ấy không mang tính cách khẩn cấp cần phải
quan tâm đến. Bà Alice Flaherty (7), một nhà thần kinh học tại Bệnh Viện Đa
Khoa của tiểu bang Massachusetts (Massachusetts General Hospital) nói với tôi
rằng: "Các bệnh nhân được điều trị bằng phẫu thuật thần kinh (limbic leucotomie/phẫu
thuật nhằm cắt đứt cấu trúc limbic của hệ thần kinh giữ vai trò điều hành thái
độ, xúc cảm, trí nhớ, v.v..., nhằm làm giảm bớt hoặc chận đứng sự đau đớn của
bệnh nhân) thường cho biết rằng: 'Tôi không còn biết sợ đau đớn nữa.
Tôi vẫn cảm nhận được nó, thế nhưng nó không còn là một sự khó chịu đối với tôi
nữa' ". Chữ cingulate (trong chữ "cingulate
cortex" trên đây chỉ định một vùng vỏ não có hình vòng cung) -
là một từ có nguồn gốc tiếng La Tinh và có nghĩa là dây lưng (belt/ceinture) -
là một vùng rất phức tạp và giữ nhiều chức năng khác nhau, tuy nhiên các hình
chụp theo phương pháp cắt lát (scan method) và các công cuộc nghiên cứu của
khoa giải phẫu học cho thấy một trong các chức năng của nó là tạo ra các tín
hiệu báo động thần kinh. Sự đau đớn trên thân xác sẽ kích hoạt hệ thống báo
động này, tuy nhiên theo các kết quả khảo cứu của bà Naomi Eisengberger (8), một
chuyên gia về tâm lý học tại đại học UCLA (University of California - Los
Angeles) thì kể cả các xúc cảm mang tính cách khổ đau, chẳng hạn như các sự
thương tổn hay tình trạng bị hất hủi (ngược đãi) do xã hội gây ra cũng có thể kích hoạt
hệ thống báo động này. Chữ "khổ đau"[ii]
(suffering/souffrance) có thể là một từ thích nghi nhất để chỉ định tính cách
tổng hợp của sự ghét bỏ, trong đó gồm có sự đau đớn thể xác và các xúc cảm [trong
tâm thần]. Các phản ứng về sự sợ hãi và các phản ứng về sự đau đớn (tức xúc cảm và
giác cảm) vận hành chồng lên nhau trong một vùng phụ thuộc (subregion)
nằm bên trong vùng "cingulate cortex" trên đây. Vùng phụ thuộc này giữ vai
trò thúc đẩy cơ thể "chạy trốn". Mỗi khi có báo động thì các cơ bắp
sẽ căng lên nhằm chuẩn bị giúp chúng ta bỏ chạy cho nhanh. Thế nhưng Ronald
Siegel cũng cảnh giác chúng ta là nếu cứ để cho các cơ bắp căng thẳng quá lâu
thì sẽ tạo ra thêm các sự đau đớn khác (đau đớn và nếu gồng mình để chống lại sự đau đớn thì ngoài
sự đau đớn do sự chấn thương gây ra còn phải gánh thêm sự mệt mỏi nữa).
Tuy nhiên cũng có một điều đáng lạc quan là sự nhận biết các tín hiệu báo động
mang tính cách tự động, và do đó có thể cứ để cho nó trôi qua (báo động nhưng không
để ý đến, vẫn giữ các cơ bắp thư giãn). Bà Naomi Eisenberger và một số các khoa học gia khác
cũng đã khám phá ra rằng các vùng trước trán của não bộ - tức là các vùng liên
hệ đến tư duy tỉnh thức - được nối kết với các vùng phát sinh ra xúc cảm và giữ
vai trò điều hành các vùng này. Mỗi khi các giác quan nhận biết một thứ gì đó
có thể là nguy hiểm thì "vùng thắt lưng" (cingulate region) sẽ tạo ra
các cảm nhận khổ đau nhằm lôi kéo sự chú tâm của chúng ta. Sau đó các vùng
trước trán sẽ xét đoán xem đấy có đúng là một sự đe dọa hay không.
Nếu sự cảm nhận đau đớn
ấy không có gì đáng để sợ hãi (không phải là một sự nguy hiểm hay đe dọa), thì ý
nghĩa của sự khổ đau sẽ tan biến hết (các vùng trước trán sẽ ngăn chận các tín hiệu báo động của
vùng thắt lưng cingulate và mình sẽ không cảm thấy khổ đau nữa). Đó
là căn bản vận hành trên phương diện sinh học, phản ảnh khái niệm về hai mũi
tên [do Đức Phật nêu lên]. Tác động
của mũi tên thứ hai là do sự đề kháng của chúng ta gây ra (dù có cảm nhận được sự đau đớn thật sự đi nữa, thế nhưng nếu
chúng ta biết giữ các cơ bắp được thư giãn, hóa giải sự khổ đau "thần
kinh" phát sinh tự động từ các vùng trước trán, không cho chúng kích hoạt hệ
thống báo động của "vùng thắt lưng cingulate" thì chúng ta sẽ ngăn
chận được sự phát sinh của toàn bộ các cảm nhận đau đớn, sợ hãi và khổ đau).
Sự khám phá trên đây đã
đưa đến phương pháp "Giảm đau bằng cách phát huy Tâmlinh Tỉnh thức" (Mindfulness-Based Stress
Reduction/MBSR/phương pháp làm giảm đau bằng thiền định) do Jon
Kabat-Zinn (9) đưa ra, và ngày nay đã được nhiều trung tâm bảo vệ sức khỏe (tác giả muốn nói
đến các bệnh viện cũng như các trung tâm dạy thiền ở Mỹ) mang ra áp
dụng. Nhà nghiên cứu tâm lý học J. David Creswell (10) của đại học Carnegie
Mellon (CMU/Carnegie
Mellon University/thuộc tiểu bang Pennsylvania Hoa Kỳ) đã mang ra kiếm
chứng phương pháp giảm đau MBSR trên đây của Jon Kabat-Jinn và cho biết rằng:
"Dường như có một mô hình khá phù hợp cho thấy là phép luyện tập tâm linh
tỉnh thức có thể làm giảm bớt các triệu chứng đau đớn của những người bị chứng bệnh
kinh niên này".
Tuy nhiên J. David Creswell cũng cho biết thêm là tâm
linh tỉnh thức không thật sự làm nhẹ bớt các giác cảm đau đớn: "Theo tôi
thì nếu phát động được thể dạng tâm linh tỉnh thức về sự đau đớn thì đấy chỉ là
cảch giúp mình cảm nhận được nó một cách trực tiếp hơn thế thôi" (có nghĩa là cảm
nhận sự đau đớn trong sự toàn vẹn của nó). Trái lại, đối với thành
phần khổ đau trên phương diện xúc cảm - tức là mũi tên thứ hai do Đức Phật nêu
lên - luôn đi kèm với sự đau đớn trên thân xác, thì một tâm linh tỉnh thức sẽ có
thể làm cho nhẹ bớt đi. Ông còn nói thêm: "Theo tôi thì mỗi khi chúng ta
phát huy được thể dạng tâm linh tỉnh thức thì sẽ xảy ra một sự tách biệt nào đó
giữa giác cảm đau đớn và các phản ứng mang tính cách xúc cảm đối với chính sự
đau đớn ấy".
J. David Creswell dựa vào một số bằng chứng gián tiếp
mang lại từ phương pháp chụp hình não bộ do chính ông đứng ra thực hiện nhằm
tìm hiểu phương cách tác động của tâm linh tỉnh thức đối với các xúc cảm gây ra
bởi sự đau đớn, đã chứng minh cho thấy sự kiện trên đây (sự tách biệt giữa sự đau đớn và các xúc cảm
khổ đau) là hoàn toàn đúng thật. Ông ước tính cường độ của các tác
động này bằng cách dựa vào một thước đo mức độ chú tâm tạo ra bởi tâm tinh tỉnh
thức. Ông ước tính khả năng tập trung vào thời điểm hiện tại của một người nào đó
chẳng hạn, bằng cách căn cứ vào một loạt các câu hỏi như: "Tôi có thể vừa
nghe một người nào đó nói chuyện bên tai và đồng thời thì cũng cứ tiếp tục làm
một công việc khác hay không?" Phương pháp ước tính căn cứ vào "thước
đo" trên đây, thực hiện song song với việc chụp hình não bộ, đã được đem
ra trắc nghiệm với một số người tình nguyện trong khi họ đang chơi các trò chơi
điện tử nhằm tạo các xúc cảm thật căng thẳng. Kết quả cho thấy là những người
có khả năng phát huy tâm linh tỉnh thức dễ dàng sẽ ít bị căng thẳng hơn. Đồng
thời các hình chụp não bộ của vùng phụ thuộc nằm trong vùng cingulate cortex (vùng cảm nhận các
xúc cảm chủ quan) của họ liên hệ đến các cảm nhận khổ đau cũng cho
thấy một sự hoạt động thấp hơn.
Dường như chính
vùng ảnh hưởng của sự chú tâm tỉnh giác trên đây đã tạo ra các tác động ảnh
hưởng đến mũi tên thứ hai, tức là sự ghét bỏ (sợ hãi) sự đau đớn trên thân xác. Hiện
nay J. David Creswell còn đang tiếp tục nghiên cứu để tìm hiểu thêm về sự kiện này
bằng cách khảo sát mức độ phản ứng của một số người đối với sự đau đớn trên
thân xác, trước và sau khi họ theo học một khóa luyện tập về tâm linh tỉnh thức
MBSR.
Người ta có thể nghĩ rằng nếu duy nhất chỉ có sự chú tâm
đơn thuần thì thể dạng này tất sẽ phải mang tính cách thụ động (có nghĩa là sự chú
tâm đơn thuần không gây ra được một tác động nào cả), thế nhưng thật
ra mỗi khi phát động sự chú tâm thì não bộ cũng sẽ trở nên linh hoạt hơn. J.
David Creswell cho biết: "Chẳng hạn như chỉ cần đơn giản chú tâm và tìm
cách trả lời một câu hỏi nào đó thì cũng đủ để kích hoạt các nguồn năng lượng giúp
mình sắp xếp câu trả lời" (có nghĩa là phải suy nghĩ để mang lại sự chính xác và mạch
lạc trong câu trả lời, điều này cho thấy là sự chú tâm luôn đòi hỏi một sự năng
hoạt nào đó của não bộ, và tâm linh tỉnh thức không nhất thiết chỉ là một sự
yên lặng thụ động).
J. David Creswell tham
dự một cuộc họp tổ chức vào tháng 12 năm 2008 tại Toronto (Gia-nã-đại) quy tụ khoảng ba mươi
lăm bác sĩ và các khoa học gia về thần kinh học nhằm hoạch định các đường hướng
khảo cứu trong tương lai về tâm linh tỉnh thức. Trong số những người tham dự có
một khảo cứu gia về khoa thần kinh học là bà Catherine Kerr (11) thuộc trường
Đại Học Y Khoa Harvard. Nếu J. David Creswell xem phép luyện tập tâm linh tỉnh
thức chỉ là một phương pháp nhằm chống lại các thứ khổ đau mang tính cách xúc
cảm biểu trưng bởi mũi tên thứ hai, thì bà Catherine Keer lại nghĩ khác hơn và
cho rằng phát huy tâm linh tỉnh thức cũng có thể tạo ra các tác động ảnh hưởng đến
cả mũi tên thứ nhất, tức là làm nhẹ bớt sự gay gắt của các giác cảm đau đớn. Bà
Catherine Keer thực hiện một cuộc nghiên cứu nhằm chứng minh sự kiện này bằng
cách chụp hình não bộ của một số người tình nguyện khi họ chuyển sự chú tâm
tỉnh thức của mình từ bộ phận này sang bộ phận khác trên cơ thể. Thật ra phương
pháp chụp hình cơ thể theo lối cắt lát (scan method) trên đây cũng đã từng được
thực hiện trong chương trình MBSR (luyện tập tâm linh tỉnh thức giúp làm giảm đau).
Phương pháp này dựa vào sự chú tâm hướng tuần tự từ bô phận này sang bộ phận
khác của cơ thể, từ đỉnh đầu cho đến các ngón chân (người tình nguyện chú tâm vào từng bộ phận
trên cơ thể và đồng thời thì máy MRI/IRM chụp hình các phản ứng trong não bộ
của người này).
Bà Catherine Keer cho biết
thêm: "Trong khi chụp hình sự vận hành của não bộ theo từng lát cắt thì người
tình nguyện tập trung trước hết vào các ngón chân, sau đó thì buông xả sự chú
tâm này ra và hướng sự chú tâm khác vào mắt cá chân hay gan bàn chân, và sau đó
lại buông xả, và cứ tiếp tục như thế. Điều quan trọng là phải dồn sự chú tâm thật
mạnh vào một bộ phận của cơ thể và sau đó thì buông nó ra. Ngay cả đối với việc
tập trung thì cũng cần phải tập, chẳng hạn như khuếch đại một bộ phận nào đó của
cơ thể, hoặc thu nhỏ nó lại. Sự thu nhỏ đó cũng giữ một tác năng quan trọng
tương đương với sự khuếch đại, nhất là đối với những người mang các thể loại
đau đớn kinh niên (thu nhỏ hay khuếch đại phần cơ thể bị đau đớn).
Bà Catherine Keer đưa ra các bằng chứng thật chính xác
cho thấy là bản đồ cơ thể con người đã bị vùng vỏ não mang chức năng cảm nhận
các giác cảm trên thân xác (brain's somato-sensory cortex) làm cho biến đổi
khác đi tùy theo tổng lượng (mức độ) của sự chú tâm hướng vào từng bộ phận trên
cơ thể (mỗi bộ
phận cơ thể có một khả năng cảm nhận giác cảm không đồng đều nhau, do đó nếu
dựa vào khả năng cảm nhận của não bộ đối với từng bộ phận để vẽ ra thân thể con
người, thì "bản đồ" này sẽ trở nên hoàn toàn méo mó và khác hẳn với "hình
tướng" mà chúng ta đang có). Chẳng hạn như đối với những người chuyên
đọc chữ nổi (braille) của người mù thì sẽ có một vùng giác cảm phát triển quan
trọng hơn ở bàn tay (do đó bàn tay sẽ biểu trưng cho một vủng giác cảm rộng hơn
bình thường trên bản đồ cơ thể).
Cũng tương tự như thế, những người mang chứng đau lưng mãn tính sẽ có nhiều
tế bào thần kinh giữ chức năng điều hành bộ phận lưng. Nhằm giúp hình dung ra
sự méo mó trên đây chúng ta có thể so sánh bản đồ giác cảm của cơ thể với bản
đồ cử tri [của nước Mỹ] theo từng tiểu bang. Chẳng hạn như trong bản đồ này
tiểu bang New Jersey (22.608 km², dân số 8.791.000 người, mật độ 389 người/km²)
sẽ to lớn hơn gấp bội so với tiểu bang Alaska (1.717.854 km² với dân số 731.000 người, mật
độ 0.43 người/km²). Tóm lại là bản đồ méo mó về giác cảm của những
người bị các chứng đau đớn kinh niên sẽ cho thấy là các phần trên cơ thể bị đau
được khuếch đại một cách quá đáng. Nếu phát động sự chú tâm đồng đều trên tất cả
các vùng trên cơ thể và sử dụng phương pháp chụp hình theo cách cắt lát thì sẽ thiết
lập được một bản đồ méo mó của toàn bộ cơ thể (phát động sự chú tâm đồng đều, thế nhưng các
phần trên cơ thể lại có khả năng cảm nhận giác cảm khác nhau, do đó bản đồ cảm
nhận giác cảm của cơ thể cũng hoàn toàn méo mó không giống với hình tướng của
của một cá thể như mình vẫn quen hình dung).
Bà Catherine Kerr cho
biết: "Giả thuyết mà chúng tôi muốn nêu lên là phép thiền định nếu được
thực thi đúng đắn thì sẽ có thể tạo ra một khả năng thật bén nhạy mang lại sự
thanh thản trong lãnh vực giác cảm (nếu khả năng cảm nhận giác cảm của mỗi bộ phận trên cơ thể tùy
thuộc vào tâm thần, thì ngược lại tâm thần cũng có thể tạo ra ảnh hưởng đối với
khả năng giác cảm của các bộ phận ấy). Đấy cũng là những gì mà chúng
tôi đang tìm cách để chứng minh".
Ngoài ra và ít nhất cũng
có hai trường hợp khác cho thấy sự chú tâm có thể tạo ra các tác động ảnh hưởng
đến mũi tên thứ nhất, tức là sự đau đớn dưới hình thức giác cảm đơn thuần. Ronald
Melzach và người đồng sự của ông là Patrick Wall cho biết là các tín hiệu đau
đớn cực mạnh đều được gạn lọc trước khi được truyền lên não bộ. Có thể hình
dung sự kiện này với hình ảnh những người tham dự một buổi họp bạn đang dàn
hàng ngang trước cửa một hộp đêm nhằm tạo ra một hàng rào cản khả ái (trong nguyên bản là
chữ nhung lụa/velvet ropes) ngăn chận các tín hiệu đau đớn đang hăm
hở chực xông vào tham dự. Những người gác cổng của cột xương sống chỉ cho phép các
tín hiệu ấy được vào khi nào có lệnh từ trên cao (tức là não bộ). Trong trường hợp sự
đau đớn xảy ra, thì các tín hiệu từ não bộ sẽ truyền xuống cột xương sống và thông
báo cho những người gác cổng biết là nên chận lại. Tarek Samad (12) một khảo
cứu gia về dược phẩm học và cũng là cựu phó giáo sư về khoa gây mê của trường Đại
Học Y Khoa Harvard cho biết rằng: "Con đường dẫn xuống [từ não bộ] thông
thường là một con đường được quy định rõ rệt. Nó có thể tạo ra các điều kiện
thuận lợi [cho sự dẫn truyền] hay ngược lại là tìm cách ngăn chận [các tín hiệu
đau đớn]. Đấy chính là cách mà tình trạng xúc cảm, bối cảnh hay môi trường gây
ra tác động ảnh hưởng đến các giác cảm đau đớn" (câu này khá cô đọng và có nghĩa là các tín
hiệu - thuận lợi hay bất thuận lợi - từ
não bộ truyền xuống cột xương sống sẽ chịu ảnh hưởng của tình trạng xúc cảm
trong tâm thần của một cá thể và cả bối cảnh đang xảy ra chung quanh cá thể ấy).
Tóm lại là tùy theo thái độ cũng như sự mong muốn của mình mà chúng ta có thể
gạn lọc các sự đau đớn trước khi chúng thâm nhập vào tri thức mình. Nếu chúng
ta phát động sự chú tâm hướng vào sự đau đớn thì đấy là cách mà chúng ta ra
lệnh mở cửa cổng thật rộng. Hậu quả là chúng ta sẽ càng cảm nhận sự đau đớn gay
gắt hơn.
Trường hợp thứ hai là
cách mà chúng ta có thể làm cho sự đau đớn gia tăng thêm là qua sợi dây thòng
lọng mà Ronald Siegel đã nêu lên. Mỗi khi chúng ta cảm nhận sự sợ hãi thì não
bộ sẽ phát ra các tín hiệu ra lệnh cho các cơ bắp phát động sự căng thẳng. Thế
nhưng nếu các cơ bắp phải giữ tình trạng căng thẳng quá lâu thì tất chúng sẽ bị
thương tổn, và khi sự thương tổn xảy ra thì chúng ta sẽ sợ hãi, và sự sợ hãi lại
càng thúc đẩy chúng ta tiếp tục gia tăng thêm sự căng thẳng của các cơ bắp.
Mô
hình Cartesian đã lỗi thời (Cartesian model/tức là chủ thuyết cơ học - mechanism theory
- do triết gia René Decartes nêu lên đã được nói đến trên đây) về sự
đau đớn tuy khá đơn giản thế nhưng lại thường bị hiểu sai. Cách vận hành đúng thật
của hệ thống gây ra sự đau đớn không hề mang tính cách hoàn toàn bản năng (máy móc),
điều này đã khiến cho chúng ta càng thêm kinh ngạc trước sự hiểu biết thâm sâu
của Đức Phật (các
giác cảm đau đớn và các cảm nhận khổ đau không nhất thiết là các phản ứng bản
năng mà do chính chúng ta tạo ra chúng. Trong khi đó theo chủ thuyết cơ học của
Decartes thì tất cả mọi hiện tượng đều xảy ra một cách tự động, máy móc và vật
lý theo quy luật nguyên nhân hậu quả. Sự nhận xét này đã khiến cho tác giả Rick
Heller càng thêm khâm phục trí tuệ của Đức Phật. Theo các nhận xét khoa học
trên đây thì sự khổ đau không nhất thiết là bản năng mà mang tính cách
"chủ quan", tức có nghĩa là có thể xóa bỏ được nó và đấy cũng chính
là Sự Thật Thứ Ba trong Bốn Sự Thật Cao Quý nêu lên sự đình chỉ (nirodha) của
khổ đau).
Reya
Stevens là một phụ nữ gốc người Boston (thủ đô của tiểu bang Massachusetts Hoa Kỳ) tu
theo Phật Giáo Theravada và chuyên giảng dạy về các phương pháp đối đầu với
bệnh tật, có nói như sau: "Bám víu có nghĩa là mình muốn một thứ gì đó sẽ
phải xảy ra đúng là như thế, hoặc là muốn một thứ gì đó phải giữ được sự toàn
vẹn đúng là như thế - chuyện đó không thể nào có thể xảy ra được, chẳng qua là vì
tất cả mọi sự đều biến đổi không ngừng".
Tìm
cách gạt bỏ những gì không thích thú là chuyện hết sức tự nhiên, thế nhưng
thường thì đấy cũng chỉ là một thứ boomerang (một loại vũ khí của thổ dân Úc, khi ném ra nó
sẽ bay đến mục tiêu và sau đó sẽ bay ngược trở lại chỗ cũ/gậy ông đập lưng ông).
Bà Reya Stevens cho biết: "Nếu chúng ta tìm cách đương đầu với một thứ gì
đó, chẳng hạn như muốn loại bỏ hay lẩn tránh một thứ gì đó, thì thật ra đấy cũng
chỉ là cách khiến nó càng trở thành tệ hại hơn".
Nhà
tâm lý học Daniel Wegner (13) thuộc trường đại học Harvard là một trong số các
nhà tâm lý học đã từng nghiên cứu về những gì sẽ xảy ra [đối với một người nào
đó] khi [người này] tìm cách loại bỏ các tư duy của mình. Não bộ vận hành níu
kéo nhau qua hình ảnh của một sợi dây thòng lọng. Trên dòng níu kéo và trói
buộc đó chúng ta thường xuyên kiểm soát xem tình trạng hiện tại của mình có đi
ngược lại với chủ đích mà mình mong muốn hay không. Thế nhưng tình trạng này
lại có thể tạo ra một hậu quả thật hết sức nghịch lý, đấy là vì các chủ đích
của mình lại quay ngược lại để kiểm soát các tư duy của chính mình. Thông
thường chúng ta chẳng bao giờ nghĩ đến là chuyện con voi có màu hồng. Nếu cố
gắng không nghĩ đến nó nữa, thế nhưng
thỉnh thoảng chúng ta lại tự hỏi: "Có phải là mình đang nghĩ đến con voi màu hồng hay không?". Câu hỏi này tự nó
đã tạo ra cho mình một thứ tư duy mà mình không muốn có nó (sau khi đọc câu chuyện con voi màu hồng trên
đây thì người đọc sẽ còn bị "ám ảnh" trong một thời gian nào đó - có
thể rất ngắn nhưng cũng có thể thật lâu dài - về một con voi màu hồng, mà trước
đó "mình chưa bao giờ nghĩ đến". Nói chung đấy là các "thắc
mắc" mang tính cách "ám ảnh" phát sinh thường xuyên trong trí mình.
Thí dụ như tự hỏi hay thắc về sự trừng phạt hay thương xót của một vị Tối Cao
đối với mình, thì mình sẽ bị ám ảnh thường xuyên một cách thật sâu kín bởi sự
"thắc mắc" ấy, và đấy chính là cách vận hành mang tính cách "ám
ảnh" của tâm thức nêu lên trên đây, tức là chuyện con voi màu hồng. Sự ám
ảnh hay thắc mắc ấy sẽ đưa đến những phản ứng đủ loại: cầu xin, mong đợi, lo
lắng, hân hoan, tin tưởng, hăng say..., hoặc những phản ứng khác mà mình không
ngờ được chẳng hạn như khuyến dụ người khác chấp nhận quan điểm của mình với
mục đích làm nhẹ bớt sự hoang mang và lo lắng của chính mình. Đấy là một hình
thức khổ đau rất tinh tế mà chỉ có thiền định mới giải tỏa được mà thôi).
Các khảo cứu gia của Darmouth (tức là trường Darmouth College/một trường đại học nổi tiếng
của tiểu bang New Hampshire của Hoa Kỳ) đã khám phá ra rằng thái độ
tự kiểm ấy sẽ tác động đến các tế bào thần kinh thuộc "vùng thắt lưng
cingulate", thế nhưng tác động này đã gây ra ảnh hưởng như thế nào đối với
hệ thống tạo ra sự đau đớn thì không được biết rõ.
Các
khảo cứu gia tại Đại Học Dalhousie tại Nova Scotia (Gia-nã-đại) và cả ở nhiều nơi khác
đã chứng minh cho thấy là càng tìm cách không nghĩ đến sự đau đớn thì thật ra
lại càng khiến mình suy nghĩ nhiều hơn về sự đau đớn ấy của mình (như đã được nói
đến trên đây: càng tin tưởng vào một sức mạnh thiêng liêng thì lại càng thắc
mắc một cách vô cùng sâu kín về chính sự thắc mắc ấy, phản ứng mang lại là càng
tin tưởng hơn nữa vào sức mạnh thiêng liêng ấy nhằm để che dấu sự thắc mắc và
hoang mang trong tiềm thức của mình. Đây là sự khổ đau đày đọa con người một
cách khủng khiếp nhất. Cứ nhìn vào các công trình kiến trúc đồ sộ - chẳng hạn
như kim tự tháp -, các thuyết siêu hình về thần học, các sinh hoạt văn hóa với
ít nhiều liên hệ đến tôn giáo sẽ nhận thấy điều này dễ dàng). Các
xúc cảm mang tính cách tiêu cực về sự đau đớn sẽ làm cho sự đau đớn trở nên nặng
nề thêm. Trong toán học,
âm và âm sẽ tạo ra dương, đối với sự đau đớn thì hoàn toàn ngược lại. Đau đớn
là một hình thức báo động, và việc cảm nhận các tín hiệu báo động của sự đau đớn
chỉ là cách mang các sự đau đớn này (tức của các tín hiệu báo động) ghép thêm vào sự
đau đớn đang có sẵn. Nếu tìm cách loại trừ sự đau đớn thì cũng
chỉ là cách khuếch đại thêm, vậy thì nếu hướng sự chú tâm vào sự đau đớn thì đấy
có phải là cách làm khổ đau nhẹ bớt hay không? Bà Stevens cho biết nhất định là có, thế
nhưng kết quả không xảy ra tức khắc (thật hết sức dĩ nhiên, tu tập và sự buông xả đích thật đòi
hỏi sự kiên trì chứ không phải là một phép lạ). Bà Reya Stevens cho biết: "Vấn đề gây ra khó khăn
cho một số người là họ cứ chờ đến khi nào sự đau đớn trở nên không còn chịu
đựng được nữa thì mới bắt đầu nghĩ đến việc luyện tập thiền định. Hầu hết trong
số họ sẽ không sao thực hiện việc hành thiền đúng đắn được, bởi vì họ chỉ mới khởi
sự giai đoạn đầu trong việc luyện tập tâm linh tỉnh thức giúp đối đầu với các giác
cảm đau đớn đơn thuần, và lúc đó thì [tâm thức] họ đã bị chi phối quá nhiều bởi
sự ghét bỏ (thù
ghét, ác cảm, sợ hãi...trước sự đau đớn). Tóm lại là phải luyện tập
thiền định trước khi bị sự đau đớn hành hạ thì mới có thể mang lại cho mình các
phản ứng thuận lợi giúp mình đối đầu với sự đau đớn khi nó xảy đến với mình". Ngoài ra còn có một điểm
khởi đầu khác nữa cần phải thực hiện, đó là việc phát động tâm linh tỉnh thức
đối với các thể dạng - dù là không mang tính cách đau đớn trên thân xác đi nữa
- mà mình thường cảm nhận được dưới các hình thức bất toại nguyện, chẳng hạn như
các sự ồn ào ngoài đường phố.
Bà Reya Stevens nêu lên
thắc mắc như sau: "Vậy đấy là sự ồn ào hay là âm thanh? Thuật ngữ ồn ào tự
nó đã ẩn chứa bên trong nó sự thù ghét của bạn đối với nó rồi đấy. Bạn gán ngay
cho nó một nhãn hiệu mang tên là bất toại nguyện".
Chính bà Reya Stevens cũng
phải thường xuyên chịu đựng thật nhiều đau đớn gây ra bởi một căn bệnh trầm kha
xảy đến với bà khi còn thơ ấu.
Bà kể rằng: "Tôi
vẫn còn nhớ có nhiều đêm tôi cảm thấy đau buốt khủng khiếp thế nhưng sự đau đớn
chỉ xảy ra ở nửa phần bên phải của cơ thể. Tôi bèn dồn tất cả sự chú tâm vào
bên trái và cố gắng giữ thể dạng tỉnh thức tập trung đó vào bên trái của thân
thể. Sự căng thẳng mà tôi cảm nhận được từ sự đau đớn ở nửa người bên phải liền
tan biến hết, nguyên nhân là sự chú tâm của tôi vào nửa người bên trái đã hội
đủ sự vững vàng và nó đã để yên cho nửa phần bên phải tự tìm lấy sự thư giãn và
buông xả. Sau đó tôi lắng vào giấc ngủ, với sự đau đớn và cả mọi thứ khác.
Shinzen Young (14) một vị thầy giảng dạy
về tâm linh tỉnh thức ở Burlington thuộc tiểu bang Vermont, có đưa ra các lời giải
thích về phép chữa trị của ông đối với những người bị chứng đau đớn kinh niên.
Trong quyển Break Through Pain(Vượt Thoát Sự Đau Đớn), ông có kể lại sự
vượt thoát này của chính mình sau một khóa ẩn cư kéo dài một trăm ngày tại một
ngôi chùa ở Nhật Bản trong một bối cảnh thật khắc nghiệt giữa mùa đông. Ông nhận
thấy mỗi khi phát huy được sự tập trung thì sự đau đớn cũng sẽ hòa tan vào một thứ
năng lượng tương tự như một thể dạng ngây ngất (runner's high). Ông cho biết rằng: "Trường hợp trên
đây cũng chẳng khác gì như một người đang bị một cơn đau khủng khiếp hành hạ, bất
chợt cảm thấy chất gây mê (endorphin) trong người dâng cao đến độ "xuyên
thủng cả mái nhà" (có thể đây là các ảo giác sảng khoái sâu xa hiện ra trong
thể dạng "hòa nhập" của thiền định gọi là samatha hay "định"). Một
cuộc nghiên cứu bằng cách chụp hình não bộ của các lực sĩ ở Munich (Đức quốc)
cho thấy là sự hứng khởi (euphoria) phát sinh trong khi tập luyện thật hăng say
là do các chất opinoid trong cơ thể (các chất tương tự với nha phiến tạo ra các tác động sảng
khoái trong tâm thần), chẳng hạn như chất gây mê endorphin, được dẫn
truyền đến vùng "vỏ não cingulate" và các vùng khác. Thuốc giả (placebo/nhằm đánh
lừa người bệnh) cũng có thể mang lại hiệu quả đối với sự đau đớn, và
đồng thời cũng cho thấy là có thể làm gia tăng việc dẫn truyền các chất hóa học
của cơ thể cùng một thể loại với chất morphin, và sự kiện này cũng đã được
chứng thực. Do đó dù cho học thuyết trên đây của vị thầy Shinzen Young chưa
được chứng nghiệm một cách thật xác thực trong phòng thí nghiệm đi nữa, thế
nhưng dường như cơ thể của chúng ta cũng có thể tiết ra các chất chống đau bằng
cách chỉ cần phát huy một tâm linh tỉnh thức thật đúng đắn. Vị
thầy Shinzen Young còn cho biết rằng nếu muốn đối phó hữu hiệu với sự đau đớn thì
cần phải hội đủ ba điều kiện: sự sáng suốt trong việc gỡ rối từng thành phần
giác cảm (trên thân
xác và trong tâm thức), sự tập trung hướng vào từng thành phần, và
sự thanh thản khi cảm nhận từng thành phần một nhưng không để cho bất cứ một sự
khổ đau nào có thể hiện ra. Ngoài các giác cảm về sự đau đớn và các thành phần
xúc cảm ra thì vị thầy Shinzen Young còn nêu ra thêm các yếu tố khác nữa, đấy
là sự tự truyện (các
thắc mắc do mình nêu lên với chính mình) và các hình ảnh tâm thần (các sự tưởng tượng
và hình dung) phát sinh từ sự đau đớn. Nếu chúng ta có thể phát động
thể dạng tâm linh tỉnh thức đối với từng thành phần một, thì chúng ta sẽ có thể
lần lượt loại bỏ được chúng (ngoài việc ý thức các thể dạng đau đớn phát sinh từ giác
cảm, chúng ta còn phải quán thấy các hình thức khổ đau dưới dạng xúc cảm phát
sinh trong tâm thần như: lo buồn, tức tối, sợ hãi... - tức là mũi tên thứ hai -
và sau đó còn phải phân tích các thắc mắc bùng lên trong đầu mình chẳng hạn như:
tại sao lại xảy ra sự đau đớn và các thứ khổ đau ấy, nguyên nhân của chúng là
gì v.v.., và các sự suy diễn và tưởng tượng của mình chẳng hạn như: nếu bị mổ
xẻ hay là tật nguyền thì người khác sẽ nghĩ gì về mình v.v..., để mà loại bỏ
từng thứ một). Vị
thầy Shinzen Young khuyên chúng ta nên nhìn thẳng vào sự đau đớn và chấp nhận
nó và hãy xem đấy như là một chiến lược then chốt [giúp đối đầu với sự đau
đớn]. Thế nhưng
ông cũng cho biết rằng chúng ta cũng có thể ngoảnh mặt đi với sự đau đớn và tập
trung vào một đối tượng khác thích thú hơn, chẳng hạn như hơi thở. Đấy không
phải là một cách mượn sự xao lãng để quên đi sự đau đớn, bởi vì sự làm ngơ đó dù
có mang lại hiệu quả đi nữa thì cũng chỉ là tạm thời mà thôi, trái lại nếu phát
huy được một sự chú tâm thật mạnh (hòa nhập với hơi thở của mình và không còn cảm thấy bất cứ
gì khác nữa) thì sẽ có thể khắc phục được sự đau đớn lâu dài hơn. Vị thầy Shinzen Young còn cho biết thêm rằng một tâm
linh tỉnh thức cũng có thể được xem như là một "tri-thức-không-phán-đoán",
nói một cách chính xác hơn thì đấy là những gì liên quan đến thể dạng thanh
thản. Và ông đã xác định thêm như sau: "Thể dạng tâm-thần-không-phán-đoán có
thể là một yếu tố mang lại sự thanh thản, thế nhưng chính sự thanh thản cũng là
một khái niệm thật bao quát".
Sự thanh thản không phải là một thái độ thụ động. Vì
thế nếu xảy ra trường hợp một người nào đó bị thương tích trên cơ thể, kể cả các
dấu hiệu đau đớn cho biết là người này đang bị nhồi máu cơ tim, thì thay vì
hoảng hốt chúng ta phải phát huy một tâm linh tỉnh thức giúp mình phán đoán
tình trạng thật tỉnh táo để biết mình nên làm gì.
Vị thầy Shinzen Young nói thêm: "Quý vị chỉ có
thể mang lại sự thanh thản đối với các giác cảm trên thân xác, cũng như các tư
duy và xúc cảm trong tâm thần, khi nào quý vị tạo được sự khách quan trong các hành
động của mình". Hành động uống một viên
thuốc để giảm đau tự nó không mang một sự sai lầm nào cả. Bất cứ một người nào
cũng có thể đặt vào miệng mình một viên thuốc và hớp một ngụm nước để nuốt viên
thuốc. Thế nhưng nếu sự chú tâm cũng có thể loại bỏ được những nỗi khổ đau tạo
ra bởi sự đau đớn, và đôi khi cũng có thể làm tan biến cả các giác cảm đau đớn
nữa, thì tại sao lại không thử thực hiện xem sao? Ngoài ra phép luyện tập tâm
linh tỉnh thức cũng có thể giúp cho việc chữa trị bằng y dược mang lại nhiều hiệu
quả hơn. Trong trường hợp nếu sự đau đớn quá sức nặng nề và việc sử dụng các
chất ma túy không còn đủ sức chận đứng được sự đau đớn nữa (thuốc morphin dùng trong các bệnh viện là một
chất ma túy). Khi nào các chất ma túy không còn hiệu nghiệm nữa thì biết
đâu khi đó một tâm linh tỉnh thức cũng có thể là một giải pháp hữu hiệu.
Việc
luyện tập tâm linh tỉnh thức nhằm đối phó với sự đau đớn phải được thực hiện
trước khi sự đau đớn trở nên quá gay gắt. Hãy xem việc luyện tập ấy như một túi
thuốc men phòng ngừa khi khẩn cấp (emergency kit) mà mình mang theo bên người
phòng những lúc không may. Tất cả chúng ta đều mang bản chất luôn trở thành già
nua, gặp phải ốm đau và cái chết. Không mấy ai trong chúng ta có thể tránh khỏi
những sự đau đớn trầm trọng trên thân xác xảy đến với mình vào một lúc nào đó.
Chuẩn bị trước sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn. Nếu chỉ để cho một mũi tên duy
nhất bắn trúng mình thì chẳng phải là tốt hơn hay sao?
Rick Heller
Vài lời ghi chú
của người dịch Qua
bài viết trên đây của Rick Heller chúng ta có thể nhận thấy ba điểm nổi bật và
đáng lưu ý.
Trước
hết chúng ta thấy rằng Đức Phật trong Bài Kinh về Mũi Tên (Sallatha
Sutta, Tương Ưng Bộ Kinh, SN 36.6) đã phân tích thật hết sức rõ ràng là sự
khổ đau gồm có hai thể dạng khác nhau: sự đau đớn trên thân xác và các xúc cảm trong
tâm thần. Ngài so sánh hai thể dạng ấy với hai mũi tên: mũi tên thứ nhất là
những sự cảm nhận đau đớn tự nhiên của thân xác cấu hợp và mũi tên thứ hai là
những nỗi đau buồn và lo lắng do mình tạo ra trong tâm thức của chính mình, tức
là những thứ khổ đau mà mình đem ghép thêm vào sự đau đớn phát sinh trên thân
xác.
Bài
viết trên đây chỉ tìm cách giải thích thêm về hai thể dạng khổ đau đó dựa vào
các sự hiểu biết mang lại từ các ngành khoa học tân tiến ngày nay như Tâm Lý Học,
Phân Tâm Học, Thần Kinh Học, v.v.... Nói một cách khác là các nỗ lực của khoa
học gia uyên bác ngày nay với những khối óc thật thông minh, xuất thân từ những
trường đại học danh tiếng nhất thế giới, được trang bị bởi các kỹ thuật hiện
đại và tinh xảo nhất chẳng hạn như máy chụp hình não bộ bằng từ tính, cũng chỉ là
để đẩy một cánh cửa mà Đức Phật đã mở sẵn cho chúng ta đã hơn hai mươi lăm thế
kỷ trước. Điểm
thứ hai cần phải lưu ý là sự đau đớn và các xúc cảm khổ đau phát sinh từ sự đau
đớn ấy cũng chỉ là các hình thức khổ đau thô thiển và lộ liễu nhất gọi là
"khổ đau của khổ đau", bởi vì Phật Giáo quan niệm khổ đau còn mang
những thể dạng tinh tế và sâu kín hơn thế rất nhiều: đó là "khổ đau vì vô
thường" và "khổ đau vì sự hiện hữu trói buộc". Các khoa học gia
trên đây dù đã chứng nghiệm được sự thật về hai mũi tên thì cũng vẫn còn lẩn
quẩn với nhau trong các thể dạng thô thiển nhất của khổ đau mà thôi.
Thật
vậy thiền định hay việc luyện tập tâm linh tỉnh thức nhằm đối đầu với các thứ
khổ của khổ đau hầu mang lại cho mình sự thanh thản chưa hẳn là Phật Giáo. Đấy
cũng chỉ là một cách đánh lạc hướng chủ đích cao quý và tối thượng trong giáo
huấn của Đức Phật là sự Giác Ngộ và Giải Thoát. Khuynh hướng áp dụng giáo huấn
Phật Giáo vào việc tìm kiếm sự thoải mái trên đây phản ảnh một góc cạnh nào đó
về sự phát triển hiện nay của Phật Giáo trong thế giới Tây Phương.
Bures-Sur-Yvette, 11.05.14
Hoang Phong chuyển ngữ
[i] (specificity theory/théorie
de la spécificité/thuyết đặc thù hay chuyên biệt phát sinh từ quan điểm triết
học của triết gia Décartes (1596-1650) chủ trương tính cách "cơ học"
(mechanism/cơ giới) của tất cả các hiện tượng qua sự liên kết giữa nguyên nhân
và hậu quả. Quan điểm triết học này đã đưa đến một cuộc cách mạng
khoa học trọng đại ở Âu Châu vào thế kỷ XVII, đặc biệt nhất là trong các lãnh
vực Thiên Văn, Vật Lý và Y Khoa. Quan điểm triết học này của Décartes đã ảnh
hưởng sâu đậm đến toàn bộ các nền văn hóa, khoa học và tư tưởng Tây Phương.
Tính cách "duy lý" (cơ học/cơ giới) đó cũng đã ít nhiều đi ngược lại
với tín ngưỡng độc thần của Âu Châu vào thời bấy giờ, có nghĩa là sự vận hành của
mọi hiện tượng mang tính cách máy móc và không tùy thuộc vào một "ý chí
tối thượng" nào cả. Trở lại với lãnh vực Y khoa thì quan điểm triết học
trên đây cho rằng sinh vật là một bộ máy (animal-machine/động vật máy), từ đó
đã làm phát sinh ra ngành Y Khoa Cơ Học (medicine-mechanisthic/médecine-mécanique)
và sau đó đã chuyển dần sang một hình thức tân tiến hơn là ngành Y Khoa Khoa
Học (Medical-Scientific/Médecine Scientifique) như ngày nay. Theo ngành Y Khoa
Cơ Học thì tất cả các hiện tượng bệnh lý đều là do các nguyên nhân mang tính
cách vật lý gây ra. Theo bài viết trên đây thì sự đau đớn đôi khi không nhất
thiết phát sinh từ một nguyên nhân mang tính cách vật lý mà là những sự
"tạo tác tâm thần", chẳng hạn như những chứng đau đớn nhưng không có
một sự chấn thương nào xảy ra (ghi chú của người dịch). [ii] Chữ khổ
đau/suffering/souffrance chỉ là một từ thông dụng. Ý nghĩa của sự "khổ
đau" trong giáo lý Phật Giáo (tiếng Phạn là dukkha tiếng Pali là duhkha)
gồm có ba thể dạng: 1) Dukkha dukkha:
là các thứ khổ đau thô thiển nhất trên thân xác và cả trong tâm thần: đau đớn
và các xúc cảm đủ loại, kể cả sự sinh, bệnh tật, sự già nua và cái chết, tóm lại
là sự khổ đau này được biểu trưng bởi cả hai mũi tên: một đâm vào thân xác và một
đâm vào tâm thần; 2) Viparinama dukkha:
là những thứ khổ đau mang lại từ bản chất vô thường của mọi hiện tượng, sự khổ
đau này thường được diễn đạt bằng thuật ngữ "bất toại nguyện". Đối
với Phật Giáo, sự khoái cảm - kể cả các thứ lạc thú dục tính - sự thanh thản
hay hạnh phúc... cũng là khổ đau, bởi vì mình muốn những thứ thứ này phải kéo
dài thế nhưng chúng lại không kéo dài như mình mong muốn; 3): Sankhara dukkha: là khổ đau của sự hiện
hữu, một thể dạng khổ đau thật tinh tế, sâu kín và cùng khắp, liên quan đến tất
cả mọi hiện tượng trong vũ trụ và trong tâm thần của mỗi cá thể, xuyên qua quy
luật của sự tương liên, tương tác và tương tạo giữa mọi hiện tượng
(pratityasamutpada), còn gọi là sự "tạo tác do điều kiện mà có", tóm
lại là sự hiện hữu của chúng ta là một sự trói buộc vô cùng chặt chẽ với sự hiện
hữu của tất cả các hiện tượng khác, từ hữu hình cho đến vô hình. Thuật ngữ
"Giải Thoát" trong Phật Giáo có nghĩa