;
. Đó là một phong tục rất đẹp mà chúng ta nên gìn giữ. Và ngay khi còn giữ được, nhiều người cũng cử hành lễ cho đủ hình thức thôi, còn ý nghĩa của việc thờ cúng tổ tiên dễ bị quên đi. Cho nên điều bây giờ chúng ta cần chú ý không phải chỉ là lễ nghi mà còn phải làm sao cho thế hệ trẻ lớn lên thấy các nghi lễ đều có ý nghĩa.
Ðối với những người Việt ở xa quê hương thì lễ gia tiên còn quan trọng hơn khi ở quê nhà, vì đó là một dịp chúng ta nối liền quá khứ với hiện tại, trong khi vẫn hướng về tương lai. Ngày Tết, các gia đình sẽ có dịp nhắc nhở con cái về lịch sử của ông bà khi giải thích với con cháu tại sao phải lễ lạy trước bàn thờ. Nếu không, thì chỉ trong vòng một hai thế hệ sẽ không còn ai để nhắc nhở, dễ bị quên lãng.
Khi tưởng nhớ tổ tiên, chúng ta cũng tạo cho các thế hệ trẻ về niềm tự hào văn hóa của dân tộc. Trong các cuốn sách nghiên cứu sử học gần đây, Tiến Sĩ Lê Mạnh Thát đã nêu nhiều chứng cớ cho thấy người Việt Nam đã có phong tục thờ cúng tổ tiên trước khi bị các quan thái thú đời Ðông Hán ép theo văn hóa Trung Hoa. Trong Tiền Hán thư đã kể chuyện một người Việt nói cho Hán Vũ đế nghe về phong tục thờ và gọi hồn người chết. Những ngôi mộ cổ từ hàng ngàn năm trước Tây Lịch cho thấy những vật tùy táng, coi như những người đã chết vẫn tiếp tục sống ở một thế giới khác.
Lê Mạnh Thát đã biện luận rằng kinh Lục Ðộ Tập trong bộ đại tạng bằng chứ Hán được nhà sư Khương Tăng Hội người Ấn Ðộ sống ở nước ta vào thế kỷ thứ ba dịch sang chữ Hán, kinh đó có thể đã dịch ra từ một bản văn bằng tiếng Việt. Bản Hán dịch cho thấy kinh Lục Ðộ Tập không xuất phát từ một bản chữ Phạn, vì có những khái niệm mà các kinh văn chữ Phạn không bao giờ dùng tới. Thí dụ nói đến tục chôn người chết, tục bỏ tiền vào miệng thi hài, những tục đó không thông dụng ở Ấn Ðộ cũng như Trung Hoa. Những luận giải trong kinh này về Hiếu, Hạnh, v. v. không có trong văn học chữ Phạn mà cũng ngược lại với quan niệm Nho Giáo ở Trung Hoa đương thời. Ngoài ra, cấu trúc ngôn ngữ nhiều chỗ theo văn pháp tiếng Việt, ngược với văn pháp chữ Hán.
Lê Mạnh Thát kết luận rằng kinh Lục Ðộ Tập là của tổ tiên người Việt chúng ta. Trong kinh đó đã bàn đến đạo Hiếu, chứng tỏ các quan niệm này đã phổ thông ở nước ta từ rất lâu. Sau một ngàn năm bị người Trung Hoa cai trị, người Việt Nam đã hấp thụ Nho Giáo để hòa lẫn với phong tục thờ cúng tổ tiên. Nhưng so sánh với người Trung Hoa có lẽ người Việt lại tiến bộ hơn, vì ông cha chúng ta không quá chú trọng đến hình thức như đa số người Hoa, mà thường rút lấy tinh túy của Khổng Giáo khi áp dụng vào tục thờ tổ tiên.
Từ đời Hán người Trung Hoa coi chữ Hiếu là đứng đầu các tính tốt, thể hiện đạo Hiếu với một thái độ “giáo điều,” trong khi người Việt, như Lê Mạnh Thát thuật lại theo kinh Lục Ðộ Tập thì chữ Hiếu không có vai trò độc tôn mà lòng thương người, thương muôn vật mới quan trọng. Ðó cũng là truyền thống thâu nhập văn minh Nho Giáo nhưng vẫn giữ các bản sắc của dân Việt, trong đó có những đóng góp của Phật Giáo.
Ngày nay chúng ta lễ tổ tiên như thế nào? Bàn về việc hành lễ, đức Khổng Tử nói: “Tế như tại,” nghĩa là “lễ tổ tiên như thể tổ tiên có trước mặt mình.”( Luận Ngữ, Thiên Bát Dật, câu 12.)
Nghi lễ đặt ra không phải chỉ vì người ta làm bổn phận với Trời, Phật, Tiên tổ, mà còn muốn gây tác dụng trên lòng người, giúp con người hướng đến điều lành, ghi khắc trong lòng các giá trị trong truyền thống. Việc thờ cúng ông bà chỉ có tác dụng nếu người hành lễ chú tâm tưởng niệm, như thể tổ tiên đang hiện diện trước mặt mình. Ðiều mà các bậc phụ huynh chúng ta cần giải thích cho con em là, nói một cách khoa học, tổ tiên lúc nào cũng có mặt ngay ở trong mỗi người chúng ta.
Ðiều các em có thể hiểu, là trong mỗi cá nhân đều có những hạt giống, có dòng máu di truyền của ông bà, cha mẹ. Những hạt giống di truyền đó nằm ở trong ta, đi theo chúng ta suốt cuộc đời, rồi mỗi người sẽ truyền lại cho con cháu mình. Có thể nói mỗi người đều mang trong mình một phần những tế bào sống và những kinh nghiệm tâm linh của tổ tiên. Di sản của tổ tiên còn gồm cả những điều các người xưa ước ao, mong mỏi xây dựng cho các thế hệ con cháu, gọi là Phước Ðức.
Người Việt Nam tin vào Phước Ðức. Ðây cũng là một tín ngưỡng đặc biệt Việt Nam, người Trung Hoa hay Ấn Ðộ không tin vào Phước Ðức như người mình tin. Niềm tin đó khiến cho mỗi người cố gắng làm điều lành, tránh điều ác, để “làm vốn” cho con cháu đời sau được hưởng phước.
Hoặc ít nhất con cháu “không phải trả nợ” những lỗi lầm của ông cha. Cũng vậy, mỗi thế hệ con cháu cũng nghĩ rằng trong đời mình có khi gặp được điều tình cờ may mắn không thể giải thích được, thì một phần sẽ giải thích là do Phước đức ông bà để lại cho. Niềm tin vào phước đức nối kết các thế hệ với nhau. Với niềm tin tưởng đó, mỗi thế hệ đều biết ơn tổ tiên vì những phước đức tích lũy từ đời trước. Rồi đến lượt chính mình cũng muốn làm điều thiện để cất đầy trong kho phước đức chung đó.
Khi một người Việt làm điều thiện, tránh điều ác, hành động đó không phải chỉ cốt tạo ra những hậu quả tốt cho chính mình, mà còn muốn, có khi chỉ cốt “để dành phước đức,” truyền lại cho con cháu.
Tổ tiên chúng ta đều chia sẻ niềm tin vào Phước Ðức. Vì vậy chúng ta có thể tin rằng ông bà chúng ta lúc nào cũng tâm niệm chúc những điều tốt lành cho con cháu, qua các hành động suốt cả đời.
Các bậc ông bà cha mẹ, dù thuộc giống dân nào chắc cũng cầu mong con cháu gặp mọi sự tốt lành và để lại cho con cháu những di sản có giá trị. Nhưng đặc biệt trong truyền thống của chúng ta, niềm tin vào Phước Ðức khiến cho tổ tiên chúng ta không phải chỉ dùng lời nói để cầu khẩn, ước mong. Vì tin vào Phước Ðức, tổ tiên chúng ta cầu chúc cho con cháu bằng các hành động lương hảo, từ thiện. Tổ tiên đã dùng chính bản thân, chính cuộc đời của mình để chúc lành cho con cháu. Khi hiểu như vậy, chúng ta phải cảm thấy một sợi dây thiêng liêng nối liền các thế hệ, nghĩ tới tổ tiên với một niềm biết ơn sâu xa. Và chúng ta hiểu phải làm bổn phận của mình với các thế hệ sắp tới.
Khi hiểu rằng trong mỗi người chúng ta không những đang mang theo các hạt giống di truyền theo sinh học, mà còn mang theo tất cả các hạt giống của điều thiện mà tổ tiên để lại, thì các bạn trẻ của chúng ta dễ cảm thấy hơn sự hiện diện của tổ tiên trước mặt họ. Vì thật sự tổ tiên đang hiện diện ở trong bản thân họ. Khi đó việc cử hành nghi lễ thờ cúng tổ tiên có một ý nghĩa sâu xa hơn, và châm ngôn “Tế như tại” được thể hiện.
Nghi lễ cúng bái tổ tiên không cần phải phức tạp hay sang trọng. Ðức Khổng Tử cũng nói “Lễ, dữ kì xa dã, ninh kiệm,” nghĩa là việc hành lễ mà xa xỉ thì nên kiệm ước còn hơn. (Luận Ngữ, Bát Dật, 4.)
Ðể cho thế hệ trẻ tham dự nghi lễ thờ cúng ông bà một cách tự nhiên, thoải mái, chúng ta cần hành lễ theo cách nào đơn giản hơn cả, chú ý nhiều đến nội dung hơn là hình thức. Như lời Khổng Tử nói về tang lễ, trong cùng đoạn trên, “Tang, dữ kì dị dã, ninh thích” (Tang lễ mà quá chú trọng nghi tiết thì chỉ bày tỏ lòng thương xót còn hơn.)
Ðiều cần chú ý là: Giản dị không có nghĩa là vội vàng, cẩu thả. Lòng thành kính phải được thể hiện ra trong hình thức bên ngoài, trong thân thể và y phục người lễ. Hành lễ với khung cảnh, thái độ, cử chỉ cung kính và trang nghiêm thì mới tạo được tác dụng sâu xa trong lòng người.
Những nghi lễ giản dị, thực hành với một tấm lòng cung kính, chúng ta có thể giúp các bạn trẻ tham dự vào phong tục thờ cúng ông bà. Ðó là truyền lại cho các thế hệ sau cả một di sản văn hóa rất đáng gìn giữ của dân tộc Việt Nam.