;
365 lời khuyên tâm huyết của Đức Đạt lai Lạt Ma (phần 10)
Cẩm nang cho cuộc sống ngày nay
Lời giới thiệu của người chuyển ngữ
Quyển sách "365 Lời khuyên Tâm huyết của Đức Đạt-lai Lạt-ma - Cẩm nang cho cuộc sống ngày nay" (365 Méditations quotidiennes du Dalai-Lama pour éclairer votre vie) của Đức Đạt-lai Lạt-ma cùng nhà sư Matthieu Ricard, đã được nhà xuất bản Presses de la Renaissance tại Paris ấn hành lần đầu tiên năm 2001, và sau đó đã được tái bản nhiều lần và cũng đã được dịch sang nhiều thứ tiếng. Quyển sách này cũng có nhiều ấn bản khác nhau, mang nhiều tựa khác nhau, trong số này có nhiều ấn bản đã được tóm lược. Một trong số các ấn bản rút ngắn này - gồm 53 câu thay vì 365 câu - cũng đã được dịch sang tiếng Việt và đã được Nhà Xuất Bản Tôn Giáo ấn hành tại Việt Nam năm 2009, và sau đó cũng đã được Nhà Xuất Bản Phương Đông tái bản năm 2011 ("Những lời khuyên tâm huyết của Đức Đạt-lai Lạt-ma", Hoang Phong chuyển ngữ, nguyên bản tiếng Pháp là "Dalai Lama - Conseils du coeur", Pocket, 2003). Lần tái bản bằng tiếng Pháp gần đây nhất và cũng đầy đủ nhất gồm toàn bộ 365 câu, là vào năm 2017. Bản chuyển ngữ tiếng Việt dưới đây được dựa vào ấn bản mới này. Người đọc cũng có thể tham khảo bản tiếng Anh của quyển sách này: "365 Dalai-Lama: Daily Advice From The Heart" (Hampton Roads Publishing Company, 2012).
Các câu "suy tư" trong quyển sách này chính thật là những "lời khuyên", giúp chúng ta biến cải chính mình hầu đối phó hay thích nghi với mọi cảnh huống trong cuộc sống, từ trong gia đình đến ngoài xã hội, từ trên thân xác đến bên trong nội tâm mình. Những lời khuyên rất thiết thực nhưng cũng thật thâm sâu này của Đức Đạt-lai Lạt-ma đã được nhà sư Matthieu Ricard trực tiếp ghi chép bằng tiếng Tây Tạng, và sau đó đã được học giả Christian Bruyat dịch sang tiếng Pháp.
Nếu nhìn Phật giáo như là một tín ngưỡng thì tín ngưỡng đó không hề bị ám ảnh bởi cái chết và những lời hứa hẹn phía sau cái chết, bởi vì đối với Phật giáo thì cái chết cũng chỉ là thành phần của sự sống mà thôi. Những lời khuyên trong quyển sách này nhất thiết chỉ nói lên sự sống đó với tất cả các khía cạnh khó khăn cũng như thuận lợi của nó.
Thật ra thì đấy cũng là những gì hiện lên bên trong tâm thức và trên thân xác mình trong từng ngày. Do đó chúng ta có thể xem quyển sách này như là một quyển sách "gối đầu giường", hoặc một người bạn đồng hành trong cuộc sống của mình. Mỗi khi cần phải đối phó với một nghịch cảnh hay gặp phải một vấn đề nan giải thì biết đâu chúng ta cũng có thể tìm được một vài lời khuyên trong sách để suy ngẫm hầu tìm một giải pháp thích nghi.
Quyển sách gồm tất cả năm phần:
I. Suy tư về sự sống (câu 1 đến 48)
- Sự sống nói chung (1 - 16)
- Tuổi trẻ (17 - 35)
- Tuổi trưởng thành (36 - 42)
- Tuổi già (43 - 48)
II. Suy tư về các cảnh huống trong cuộc sống (câu 49 đến 129)
- Đàn ông và đàn bà (49 - 53)
- Cuộc sống trong gia đình (54 - 70)
- Cuộc sống độc thân (71 - 74)
- Cuộc sống tập thể (75 - 79)
- Cuộc sống sung túc (80 - 92)
- Cuộc sống trong cảnh nghèo khó (93 - 97)
- Bệnh tật (98 - 101)
- Những kẻ tật nguyền và những người chăm sóc họ (102 - 105)
- Người sắp lìa đời và những người thân chung quanh (106 - 118)
- Công ăn việc làm và tình trạng thiếu giải trí (119 đến 120)
- Nhà giam và các tù nhân (121 - 129)
- Đồng tính luyến ái (130 - 132)
III. Suy tư về cuộc sống tập thể trong xã hội (câu 133 đến 181)
- Chính trị (133 - 139)
- Công lý (140 - 144)
- Tương lai thế giới (145 - 147)
- Giáo dục (148 - 150)
- Khoa học và kỹ thuật (151 - 153)
- Thương mại và kinh doanh (154 - 156)
- Nghệ thuật viết lách và nghề làm báo (157 - 161)
- Canh nông và môi trường (162 - 167)
- Chiến tranh (168 - 175)
- Dấn thân vì kẻ khác (176 - 181)
IV. Suy tư về các khó khăn trong cuộc sống (câu 182 đến 304)
- Hạnh phúc (182 - 188)
- Bất hạnh (189 - 198)
- Yếm thế (199 - 210)
- Sợ hãi (211 - 215)
- Tự tử (216 - 219)
- Cô đơn và sự cô lập (220 - 229)
- Giận dữ (230 - 241)
- Kiềm tỏa dục vọng (242 - 247)
- Ganh tị và chứng ghen tuông (248 - 253)
- Kiêu hãnh (254 - 257)
- Khổ đau (258 - 267)
- Rụt rè (268 - 271)
- Do dự (272)
- Oán ghét chính mình (273 - 276)
- Nghiện rượu và ma túy (277 - 280)
- Đam mê tình ái (281 - 285)
- Thiếu suy nghĩ (286 - 289)
- Tính hay nói xấu (290 - 294)
- Tính độc ác (295 - 303)
- Thờ ơ (304 308)
V. Suy tư về cuộc sống tâm linh (309 -365)
- Người có đức tin (309 - 315)
- Người vô thần (316 - 327)
- Người tu sĩ và cuộc sống nơi tu viện. (328 - 339)
- Người hành thiền (340)
- Đức tin (341 - 344)
- Các giáo phái (345 - 347)
- Người muốn bước theo con đường Phật giáo (348 - 356)
- Việc Tu tập Phật giáo (357 - 365).
Suy tư về người hành thiền
340
Không khác gì với các tôn giáo khác, Phật giáo cũng có một số giáo huấn dựa vào sự hiểu biết thuần lý (speculation, theorization/sự biện luận), và được trao truyền từ thầy đến đệ tử. Thế nhưng những người hành thiền, qua các kinh nghiệm sống mà mình đã thực hiện được, đã chứng thực giá trị của các giáo huấn mang tính cách thuần lý đó.
Số người hành thiền này, tuy không đông đảo, nhưng chính họ đã phất cao "ngọn cờ vinh quang" trong lãnh vực thực hành. Nhờ phát động được sự tĩnh lặng tâm thần và sự quán thấy sâu xa, những người hành thiền đó đã đạt được các kinh nghiệm thiền định cùng các thành quả trong nội tâm mình, mang lại sức sống cho những sự hiểu biết lý thuyết, nếu không thì những sự hiểu biết ấy sẽ còn mang các nét huyền thoại và giả tạo.
Tôi không tiếc lời ngợi khen họ (Phật giáo không phải chỉ là lý thuyết đơn thuần mà nhất thiết xoay quanh sự học hỏi và tu tập mang lại những thành quả cụ thể. Việc học hỏi và tu tập đó, đặc biệt hơn cả là phép hành thiền, đòi hỏi một sự cố gắng liên tục và suốt đời, giúp người tu tập - thế tục cũng như xuất gia - tự biến cải tâm thức và con người của chính mình. Trong số họ nhiều người đã đạt được các thành quả phi thường qua cung cách hành xử cũng như sự hiểu biết của họ. Với các thành quả đó họ đã thổi vào giáo huấn Phật giáo một sức sống thật mãnh liệt, vượt lên trên tính cách hoang tưởng và huyền thoại của các giáo điều, kể cả sự ngoan ngoãn và các hình thức đức tin không suy nghĩ).
Suy tư về đức tin
341
Thật vậy, không một chút nghi ngờ nào cả, đức tin luôn giữ một vai trò quan trọng trong tất cả các tôn giáo. Thế nhưng đức tin phải được thúc đẩy bởi các nguyên nhân chính đáng. Nagarjuna/Long Thụ (tiểu sử đã được nêu lên trong câu 52) triết gia nổi tiếng người Ấn vào thế kỷ thứ II, nói rằng sự hiểu biết và đức tin phải đi đôi với nhau, tay trong tay.
Thật vậy đối với Phật giáo, đức tin được xem là cội nguồn mang lại một sự hồi sinh cao đẹp, và sự hiểu biết là cội nguồn của sự Giác Ngộ (đức tin là nguồn sinh lực mang lại cho mình một cuộc sống cao cả và thánh thiện, sự hiểu biết tạo ra từ cuộc sống đó sẽ mang lại cho mình Trí Tuệ), thế nhưng Long Thụ cũng lưu ý rằng "đức tin phải bắt nguồn từ một sự hiểu biết sáng suốt", nói một cách khác là phải hiểu được tại sao mình lại tin.
"Đức tin" - trong nguyên bản là foi/faith - là một thuật ngữ đặc thù của các tín ngưỡng độc thần , và cũng là động cơ thúc đẩy chủ yếu của toàn bộ các tôn giáo đó. Thiếu đức tin thì các tôn giáo đó sẽ sụp đổ ngay. Do đó một trong các phép "tu tập" căn bản của các tôn giáo này là phải "bảo vệ" đức tin bên trong chính mình với bất cứ giá nào, đồng thời quảng bá và "ép buộc" người khác cũng phải tin theo "đức tin" đó của mình, bởi vì đó là một cách gián tiếp trấn an mình và củng cố "đức tin" bên trong chính mình. Tiếc thay chính sự mong muốn đức tin đó phải được mọi người tin theo lại là nguyên nhân sâu xa nhất đưa đến các cuộc xung đột triền miên.
Đối với Phật giáo "đức tin" chỉ là sự "tin tưởng" vào tính cách ích lợi và thiết thực trong việc tu tập nhằm cải thiện chính mình, giúp mình ngày càng trở nên sáng suốt và đạo đức hơn. Sự "tin tưởng" đó không phản ảnh một hình thức "ngoan ngoãn" hay "thần phục" nào cả, mà chỉ là một "phương tiện" mang lại cho mình nghị lực trong việc tu tập, hầu khám phá ra "Sự Thật" về thế giới và con người của mình, nhằm giải thoát sự hiện hữu trói buộc này của mình ra khỏi cái thế giới đầy biến động và khổ đau đó. Đức Phật dạy rằng phải mang "Sự Thật" đó ra để tự mình thử nghiệm, tương tự như người thợ kim hoàn thử vàng. "Sự Thật" hiện ra qua sự chứng nghiệm đó của mình chính là "Đức tin" trong Phật giáo - gccncntV).
342
Đối với Phật giáo đức tin gồm ba giai đoạn phát triển, tương quan với ba cấp bậc khác nhau: sự cảm hứng (inspiration), niềm ước vọng (desire) và sự vững tin (conviction). Đức tin ở cấp bậc "cảm hứng" nói lên một sự thán phục (admiration) mà mình cảm nhận được sau khi đọc một quyển sách giá trị, tiếp xúc với một người có một khả năng phi thường, hay được nghe nói chuyện về Đức Phật. Đức tin ở cấp bậc "ước vọng" (desire), nói lên một sự mong muốn vượt cao hơn chính mình (emulation), có nghĩa là đạt được một sự hiểu biết và quán thấy sâu xa, hầu giúp mình trở thành tương tự như người mà mình ngưỡng mộ (một vị Bồ-tát hay một vị Phật chẳng hạn).
Hai thể loại đức tin này (cảm hứng và ước vọng) không được bền vững lắm vì không căn cứ vào một sự hiểu biết cụ thể nào cả. Trái lại đức tin duới hình thức một sự "vững tin" (conviction) được củng cố bởi một sự hiểu biết minh bạch về những gì mà mình mong muốn đạt được đều có thể trở thành sự thật. Thể loại đức tin này được dựa vào lý trí. Kinh sách cho biết Đức Phật từng căn dặn các đệ tử của mình không nên tin một cách mù quáng vào những điều Ngài nói, mà phải kiểm chứng các điều ấy tương tự như người thợ kim hoàn thử vàng bằng cách đập, nấu, kéo giãn.
343
Sự sùng kính đôi khi rất phù du, trừ phi được khơi động thật vững chắc. Ở Tây Tạng cũng như tại một vài nước khác, một số người tu tập thường phát động được một sự sùng kính thật mạnh đối với thầy mình. Thế nhưng nếu vị này bất chợt qua đời thì sự sùng kính đó cũng sẽ tan biến theo, họ xem mọi sự đều chấm dứt, trung tâm mà truớc đây họ từng được học hỏi vụt đóng cửa (đây là cách nói ẩn dụ, đồng hóa người thầy với một trung tâm giảng dạy). Thế nhưng trong thế giới của vô biên, dù người thầy vẫn còn đó bằng xương bằng thịt hay đã khuất, thì cũng chẳng có gì thay đổi cả.
Người thầy biểu trưng cho bản chất tối thượng của tâm thức, vì thế không gian không phải là một chướng ngại ngăn chận được lòng từ bi của vị ấy. Khi nào nhận thấy được kích thước vô biên đó nơi thầy mình, thì người đệ tử cũng sẽ không còn phát lộ những sự bám víu quá đáng vào hình tướng con người (tức là thân xác vật chất) của thầy mình nữa (Phật giáo Theravada gọi "thân hình tướng" là "Thân Vật Chất"/Rupakaya; Phật giáo Đại Thừa thì gọi là "Thụ Dụng Thân"/Sambhogakaya).
Người đệ tử nên hiểu rằng dù đã rời bỏ lớp thân xác bên ngoài, thế nhưng bên trong bầu không gian của thân xác tối thượng (Phật giáo Theravada gọi là Thân Tâm Thần/Manomayakaya; Phật giáo Đại Thừa thì gọi là Thân Biến Hóa/Nirmanakaya), khả năng ban phúc (trong nguyên bản là chữ "benediction" là một thuật ngữ Tây phương thuộc các tín ngưỡng độc thần, thế nhưng trong Phật giáo cũng có khái niệm "ban phúc", nhưng gọi bằng một thuật ngữ khác hơn đó là sự "hồi hướng" công đức của mình) và sự sinh động của vị thầy mình vẫn luôn ở bên cạnh mình (1).
(1) Trong Phật giáo Vajrayana/Kim Cương Thừa, một vị thầy đích thật và người đệ tử của mình luôn kết chặt với nhau, mục đích duy nhất của sự kết hợp đó là giúp người đệ tử khám phá ra bản thể đích thật của thầy mình. Trong quá trình kết nối đó, trước hết người đệ tử phải đặt hết lòng tin vào thầy mình, điều này sẽ giúp mình đón nhận một hiện thực mới sâu xa hơn chính mình, và đồng thời người thầy, qua lòng tin đó của người đệ tử, cũng sẽ giúp cho tâm thức người này trở nên già dặn hơn.
Sau khi người thầy và người đệ tử cùng nhau đi đến cuối con đường, thì cả hai sẽ trở thành một: Con người duy nhất đó (tức là thầy và đệ tử sau khi giúp nhau đi trọn con đường đã trở thành một "thực thể" duy nhất, mang một tâm thức duy nhất) sẽ khám phá ra bản thể đích thật của tâm thức của chính mình (tức là tâm thức chung của "thực thể" duy nhất đó), và bản thể đó cũng chẳng phải là gì khác hơn với "Thân tuyệt đối" của một vị Phật ("Thân tuyệt đối" còn gọi là Pháp Thân/Dharmakaya, mang bản chất trống không tuyệt đối của sự Giác Ngộ), nói một cách khác là sự Hiểu Biết (Trí Tuệ) và lòng Từ Bi, hiện hữu từ khởi thủy của thời gian. Đấy là lý do cho thấy tại sao những người chỉ biết bám víu vào hình tướng bên ngoài của thầy mình sẽ không bao giờ quán thấy được hiện thực đó (sự kết hợp giữa thấy và đệ tử tạo ra một hiện thực duy nhất và cũng là Pháp Thân của một vị Phật) mà chỉ thừa hưởng được những gì phát sinh qua trung gian của sự kết nối giữa mình với thầy mình như là một người bình dị mà thôi - gcts.
Trên đây là một trong số các phương tiện vô cùng "thiện xảo" của Phật giáo Tây Tạng. Tâm thức của người đệ tử phải kết hợp với tâm thức của người thầy hầu thừa hưởng những sự thành đạt sẵn có bên trong tâm thức của thầy mình, và đồng thời sự kết hợp đó cũng sẽ tạo ra cho mình một sức mạnh vô song trên đường tu tập. Thế nhưng trong hoàn cảnh ngày nay, khi xứ sở Tây Tạng đã bị xóa bỏ trên bản đồ thế giới, thì các vị thầy của quê hương đã mất đó đã phải lưu vong khắp nơi, vì thế không phải dễ cho chúng ta tìm được một vị thầy chân chính và cao thâm của một nền Phật giáo siêu việt.
Vậy chúng ta hãy thử hướng vào chính Đức Đạt-lai Lạt-ma như là vị Thầy của mình và sau đó là luôn nghĩ đến Ngài, đấy là cách mà mình mở rộng tâm thức mình để hòa nhập vào cả một "Đại dương Trí tuệ" bên trong tâm thức Ngài. Nếu duy trì được sự nối kết đó ngày càng khắng khít hơn thì mình cũng sẽ cảm thấy ngày càng gần gũi hơn với "Đại dương trí tuệ" đó của Ngài. Những ngọn sóng thật mặn của lòng từ bi và tình thương yêu dạt dào trong "Đại dương trí tuệ" đó sẽ tràn vào tâm hồn mình, và một lúc nào đó biết đâu mình cũng sẽ bất chợt cảm thấy những ngọn sóng đó dường như cũng đang trở thành những ngọn sóng của riêng mình, dấy lên từ một nơi thật sâu kín bên trong tâm thức của chính mình.
Thế nhưng, một ngày nào đó khi Đức Đạt-lai Lạt-ma quyết định rời bỏ Thân xác thụ hưởng/Sambhogakaya này của mình, thì không phải vì thế mà "Đại dương Trí Tuệ" mênh mông bên trong tâm thức Ngài cũng sẽ biến mất theo. Không gian vô biên và thời gian vô tận không thể ngăn chận được những ngọn sóng dồn dập đó bên trong một tâm thức đã vượt thoát khỏi thế giới hiện tượng này.
Trở lại với thực tại ngày nay thì nếu không tìm được một vị thầy nào của một quê hương đã lùi dần vào lịch sử, thì cứ để cho những làn sóng của tâm thức mình lan vào tâm thức của Đức Đạt-lai Lạt-ma. "Đại dương trí tuệ" của Ngài rất rộng lớn và lúc nào cũng mở rộng để đón nhận những làn sóng đang dồn dập trong tâm hồn chúng ta - gccncntV.
344
Khi người thầy rời bỏ thế giới này và nếu chúng ta nghĩ rằng sự sùng kính của mình cũng theo đó mà biến mất, thì sự sùng kính ấy cũng chỉ là một hình thức bám víu mà thôi. Đấy là cách mà mình xem người thầy mình như là một người bạn đồng hành, một người bình dị, một người phối ngẫu hay một người thân thuộc.
Trong trường hợp đó, sự quá vãng của người thầy sẽ là một sự biến mất thật sự, và khi đó chúng ta sẽ không còn biết là phải xoay sở ra sao. Điều này cho thấy thật rõ ràng là các cảm nhận của chúng ta trước đây về thầy mình không phải là một sự sùng kính đích thật.
Suy tư về các giáo phái
345
Theo tôi thấy thì có hai cách giúp chúng ta tránh được tình trạng chia rẽ và cách biệt trong lãnh vực tín ngưỡng. Trước hết là phải kính trọng tất cả các tôn giáo. Chẳng hạn tôi là người Phật giáo nhưng tôi cũng rất quý trọng Ki-tô giáo và các tôn giáo khác. Sau đó không những chỉ biết kính trọng suông mà còn mong được tu tập theo các tôn giáo ấy nữa. Chính vì vậy đã từng có một số người vừa tu tập Ki-tô giáo và cả Phật giáo. Chuyện này hoàn toàn có thể xảy ra được, thế nhưng chỉ ở một cấp bậc nào đó mà thôi (người ta thường nói tôn giáo nào cũng vậy, điều đó cũng đúng thế nhưng cũng chỉ ở cấp bậc hiểu biết và khả năng lý luận của những người tu tập ba phải nói đến trên đây).
346
Khi đã tiến xa hơn trên con đường thì sẽ có đôi chút khác biệt. Khi nào thấu triệt được sự "Trống Không" (Emptiness/Vacuité/Tánh Không) và nguyên lý "Tương liên" (Interdependence/ Lý Duyên Khởi) (1) giữa mọi sự vật là gì, thì quả khó để chấp nhận ý niệm về một vị Trời, vừa là một vị Sáng Tạo lại vừa tự mình hiện hữu một cách trường tồn và bất biến (đây là một sự nghịch lý vô cùng thô thiển và lộ liễu: Trời thì trường tồn và bất biến, nhưng lại sáng tạo ra toàn những thứ biến động (vô thường), vô thực thể và phải níu kéo nhau và liên hệ chằng chịt và để mà hiện hữu. Nếu bản chất của mình là hoàn hảo, toàn năng và bất biến thì cũng phải sinh ra những gì mang cùng một bản chất với mình chứ. Con sư tử sinh ra con sư tử, không thể sinh ra con chuột được, thế nhưng con chuột thì lại có thể cắn tấm lưới để giải thoát cho con sư tử.
Trong thế giới hiện tượng không thể có cái này sinh ra cái kia mà chỉ có các hiện tượng lệ thuộc vào nhau để cùng hiện hữu và chuyển động). Cũng vậy đối với những người tin là có một vị Trời Sáng Tạo ra vũ trụ, thì quả khó để họ có thể hiểu được nguyên lý Tương Liên/Interdependence là gì (đối với Phật giáo tất cả mọi hiện tượng - dù là vô hình hay hữu hình - đều phải tương liên và tương tác với nhau để hiện hữu, không có một ngoại lệ nào cả. Đó là một nguyên lý toàn cầu, khoa học ngày nay cũng đã chứng minh điều đó, hay ít nhất cũng phải chấp nhận điều đó). Ở một cấp bậc nào đó thì người ta cũng chỉ có thể với được những gì làm nền tảng cho tôn giáo mình và cũng có thể trở nên "thành thạo" trong cấp bậc ấy mà thôi - nếu có thể nói như thế (chữ "thành thạo" là tạm dịch từ chữ "specialize" trong nguyên bản. Câu trên đây có nghĩa là mình có thể rất "thành thạo" về tôn giáo của mình, nhưng cũng chỉ là ở cấp bậc liên quan và thích hợp với trình độ hiểu biết của mình. Thí dụ một người theo Ki-tô giáo rất "ngoan đạo" nhưng không hề thắc mắc là tại sao và vì lý do gì mà Trời sinh ra mình như thế này; đối với một người theo Phật giáo thì cũng có thể là "kinh kệ làu làu", nhưng không nghĩ đến là phải tìm hiểu xem phía sau các kinh kệ đó còn có những gì khác hơn mà mình phải học hỏi và áp dụng trong cuộc sống của mình.
Đó là các trường hợp cho thấy một số người tu tập dù chỉ ở một trình độ nào đó nhưng cũng có thể rất "thành thạo" trong lãnh vực tôn giáo của mình, và tất nhiên là chỉ ở vào cấp bậc hiểu biết của mình mà thôi). Dầu sao điều đó cũng không hề ngăn cấm chúng ta kính trọng các đường hướng tín ngưỡng khác, thế nhưng nếu phải tu tập chung thì quả là khó (2) (thực tế cho thấy ngay bên trong một tín nguỡng cũng có nhiều giáo phái khác nhau.
Sự bất đồng chính kiến giữa các tôn giáo phát sinh từ các quan điểm khác nhau về những gì xảy ra phía sau cái chết, Trời cũng có lắm Ông, Địa đàng cũng có lắm kiểu, và đó cũng là nguyên nhân sâu xa nhất đưa đến các cuộc xung đột triền miên trong suốt lịch sử nhân loại. Là người Phật giáo chúng ta phải ý thức được điều đó, phải nhìn thẳng vào sự thật đó và nói lên sự thật đó hầu tự cảnh giác mình trước các sự xung đột phi lý về tín ngưỡng. Qua một số lời khuyên trong quyển sách này Đức Đạt-lai Lạt-ma cũng đã nói lên sự thật đó, nhưng được kèm theo một sự khoan dung thật rộng lớn và một lòng từ bi vô biên).
(1) Khái niệm về sự "Trống Không" (Emptiness/Vacuité/Tánh Không) trong Phật giáo không có nghĩa là hư vô, mà chỉ đơn giản cho biết là không có bất cứ một thứ gì hàm chứa một hiện thực nội tại (tự tại, thực tại, thực chất) nào cả. Khái niệm "tương liên, tương tác và tương tạo" (Interdependence/Lý duyên khởi) mật thiết liên hệ với khái niệm về sự "Trống Không" (Tánh Không) trên đây, và đôi khi cũng được xem như là chính sự "Trống Không" đó - gcts. Sở dĩ các hiện tượng hiện hữu là nhờ "tương liên" và "tương kết" với nhau - tức là phải lệ thuộc vào nhau để mà hiện hữu - vì thế sự tương liên giữa chúng với nhau cũng trực tiếp phản ảnh sự trống không của chúng - gccncntV).
(2) Đức Đạt-lai Lạt-ma thường cho biết là khái niệm về một vị Trời không đặt thành vấn đề đối với Phật giáo, trong trường hợp xem "Vị" ấy là tình thương vô biên. Thế nhưng nếu xem "Vị" ấy là nguyên nhân tiên khởi nhất (sáng tạo ra mọi thứ) thì sẽ là cả một vấn đề. Nếu muốn hiểu tại sao thì độc giả có thể xem thêm quyển sách "L'Infini dans la paume de la main"/"Vô tận trong lòng bàn tay" của Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận, nxb Nil, 2000 - gcts. (Quyển sách này đã được dịch sang tiếng Việt với tựa "Cái vô hạn trong lòng bàn tay", Nhà Xuất Bản Trẻ, tái bản 2011. Trong cách dịch "Cái vô hạn" trên đây thì chữ "cái" là một mạo từ "xác định" dùng để chỉ định một "cái" gì đó rõ rệt, thế nhưng chữ "vô hạn" thì lại nói lên một ý niệm trừu tượng, một cái gì đó không xác định được. Vì thế nếu gọi "vô hạn" (vô tận, vô biên) là "cái vô hạn", thì tự nó là một sự nghịch lý - gccncntV).
347
Ngoài ra trong Phật giáo cũng có một phép tu tập gọi là "quy y" (có nghĩa là dựa vào hay nương tựa vào...). Một khi đã quy y nơi Đức Phật thì tôi không tin rằng người ta lại còn có thể quy y thêm với Chúa Ki-tô chẳng hạn, nếu không muốn rơi vào tình trạng khó xử (dilemma, có nghĩa là tình trạng nước đôi, một đằng dựa vào sự hiểu biết và biến cải chính mình, một đằng thì dựa vào đức tin và sự ngoan ngoãn, mỗi bên mỗi hướng, chẳng có chút gì liên hệ với nhau, ngoài các hình thức màu mè của tín ngưỡng). Theo tôi nghĩ trong trường hợp đặc biệt này, tốt hơn chỉ nên xem Chúa Ki-tô như là hóa thân của một vị Bồ-tát (Bodhisattva) (Bồ-tát là một người tu tập được khơi động bởi lòng từ bi vô biên, thệ nguyện giúp đỡ tất cả chúng sinh cho đến khi nào tất cả đều đạt được Giác Ngộ và sự Giải Thoát cuối cùng).
Suy tư về những người muốn bước theo con đường Phật giào
348
Từ khoá :
365 lời khuyên tâm huyết
đức đạt lai lạt ma
lời khuyên của đức đạt lai lạt ma
Phật giáo
cuộc sống
tình thương
khổ đau
thương yêu
xã hội
hành thiện
TIN LIÊN QUAN