;
A. XUẤT XỨ VÀ Ý NGHĨA CỦA NGHI LỄ HẰNG THUẬN
Nhiều nguồn tư liệu cho rằng, cụ đồ Nguyễn Trọng Thuật, bút hiệu là Đồ Nam Tử (1883 – 1940) là người đầu tiên nghĩ đến việc tổ
chức lễ cưới tại chùa. Ông vốn là một nhà Nho quê ở Hải Dương, sau quy y Tam Bảo. Với lòng nhiệt thành phụng sự Phật Pháp, ông cho rằng việc tổ chức lễ cưới tại chùa sẽ có lợi ích cho gia đình Phật tử, nhất là đời sống đạo đức tâm linh.
Năm 1930, tại chùa Từ Đàm – Huế đã tổ chức lễ cưới cho con gái của bác sĩ phật tử Tâm Minh – Lê Đình Thám – là bà Lê Thị Hoành với ông Hoàng Văn Tâm. Đây là lễ cưới đầu tiên được tổ chức tại chùa trong lịch sử Phật giáo nước nhà.
Đến năm 1971, Hòa thượng Thích Thiện Hòa đã chính thức đặt tên cho lễ kết hôn tại chùa là Lễ Hằng Thuận. Mục đích chính của lễ Hằng Thuận là làm thế nào để cho đôi vợ chồng ý thức được tầm quan trọng của nền tảng đạo đức tâm linh trong đời sống gia đình, để từ đó hướng đến một đời sống hôn nhân thật sự an lạc hạnh phúc.
Điều này có nghĩa là vợ chồng phải luôn sống trên tinh thần hòa thuận, tôn trọng lẫn nhau, cùng nhau vừa làm tròn trách nhiệm và bổn phận của người vợ người chồng trong đời sống lứa đôi, đối với ông bà cha mẹ và con cái của mình; vừa hướng đến con đường tu tập giác ngộ giải thoát trên cơ sở giữ gìn ngũ giới, hành thập thiện và tu tập theo Bát Chánh Đạo…
Trong buổi lễ, ngoài một vài lễ nghi truyền thống của một đám cưới như tuyên bố lý do, trao nhẫn cưới, nhận lời chúc tụng của hai họ, thì nghi thức Hằng Thuận trong ngày cưới còn bao gồm việc tạo điều kiện cho cô dâu – chú rễ được đảnh lễ chư Phật, được Quy y Tam Bảo, được chư Tăng đứng ra chứng minh hôn sự ngay nơi Chánh điện, đồng thời được qúy Thầy tận tình hướng dẫn đạo lý vợ chồng trong đời sống hôn nhân như lời đức Phật đã dạy trong kinh Thiện Sanh hay kinh Ca Thi La Việt…
Phật dạy người chồng phải có năm bổn phận đối với người vợ:
1.Phải biết tôn trọng vợ.
2.Không bất kính hay đối xử tệ bạc với vợ.
3.Phải chung thủy, trung thành với vợ.
4.Phải tin tưởng giao tài sản, tiền bạc cho vợ quản lý.
5.Phải sắm đồ nữ trang cho vợ một khi có điều kiện.
Đồng thời Ngài cũng dạy người vợ phải làm tròn năm bổn phận đối với người chồng:
1.Phải luôn làm tròn bổn phận trong nhà.
2.Phải vui vẻ tử tế với quyến thuộc bên chồng.
3.Phải luôn chung thủy với chồng.
4.Giữ gìn cẩn thận đồ trang sức và luôn coi sóc giữ gìn của cải, đồ dùng trong nhà.
5.Luôn siêng năng, không bao giờ trút tháo công việc cho người khác.
B. LỄ HẰNG THUẬN. CÓ NÊN HAY KHÔNG?
Có một số điểm cần luận rõ:
1. Chùa chiền là nơi thanh tịnh, trang nghiêm để quý Tăng – Ni tu hành, những người vốn đã thệ nguyện cắt ái ly gia, sống đời phạm hạnh, hướng đến đại sự liễu sanh thoát tử cho chúng sanh. Chùa chiền cũng là điểm tựa tâm linh của bao người con Phật tại gia, vốn còn chịu sự ràng buộc bởi duyên nợ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu trong gia đình; bạn bè, đồng nghiệp… ngoài xã hội.
Chùa chiền cũng đồng thời là điểm đồng quy, hội tụ tâm linh hướng Phật tu hành của muôn vạn chúng sanh trong muôn vàn cảnh giới khắp thập phương tam cõi. Rõ ràng, ngôi Tam Bảo vốn là nơi giải thoát tôn nghiêm, là nơi quy kỉnh Phật của tất cả chúng sanh trong khôn cùng cảnh giới khắp 10 phương tầm về tu hành, tiếp gót chư Phật.
– Xưa, Đức Phật vì lòng Từ Bi vô lượng với nỗi thống khổ sanh – lão – bệnh – tử của chúng sanh, với sự vô thường của vạn pháp mà tầm phương giải thoát. Vợ đẹp, con thơ, cha già, bằng hữu, ngôi vị đế vương, đời sống vương giả… tất cả Ngài dứt khoát xả ly, chí nguyện xuất trần Ngài thêm kiên cố. Trải qua bao khó nhọc, nguy nan, ngoại ma và nội chướng…, Ngài không hề thối tâm, chẳng màng sanh tử. Cuối cùng, Ánh Đạo Vàng soi sáng khắp nẻo vô minh, dìu dắt con thơ – khắp pháp giới chúng sanh – tầm về tánh Giác.
– Gương xưa còn đó, thế mà hiện nay, rất nhiều vị Tăng – Ni lại đồng thuận tổ chức lễ cưới trong chùa, dưới sự chứng minh của Tam Bảo (?). Hẳn ai cũng biết, ái dục là cội nguồn của khổ đau, là gốc của luân hồi sanh tử, là “nội chướng” khó buông xả nhất của người tu Phật trên lộ trình giải thoát. Trong khi đó, lễ cưới cho đôi uyên ương chính là sự khởi đầu của đời sống vợ chồng, trong đó có đời sống tình dục, sinh con đẻ cái, tiếp nối duyên – nợ của nhau trong nhiều kiếp, kể cả đời vị lai.
Vậy cớ sao Tăng – Ni lại tổ chức lễ cưới thế gian trong chùa, khi nó đi ngược lại tinh thần thoát tục, giải thoát của chư Phật? Chư Phật tầm đường thoát “Khổ” cho chúng sanh thì nay cớ sao Tăng Ni lại muốn Phật “cùng” chứng minh, chúc phúc cho cái “Khổ” ấy tại chốn Phật môn thanh tịnh? Đó là suy nghĩ cá nhân mang tính chủ quan, áp đặt của Tăng-Ni đồng thuận hay là lời thật Phật dạy rằng cứ tổ chức hôn lễ…ở chùa là chư Phật sẽ tác đại chứng minh, dù đó là việc làm trái Pháp?
Chứng minh cho điều gì, khi đó là sự khởi đầu của phiền não thế gian, dù muốn hay không, trong đời sống vợ chồng; là nhân của luân hồi sanh tử; lại được chính Thích tử đồng thuận mang vào chốn Phật môn trang nghiêm, tịch tịnh? Đây là việc hành trái Pháp. Tu sĩ nếu hành trái Pháp thì tự chuốc nghiệp vào thân.
2. Tu sĩ là những người sống theo môn quy, hành theo Giới luật để bảo hộ đường tu. Ngoài thu nhiếp sáu căn trước mọi duyên, tâm nương nơi câu thoại đầu, niệm Phật, hay mật chú để điều phục thân-khẩu-ý cho đến khi ngộ Tánh. Nếu công phu chưa thuần thục tới cảnh giới “Vô Niệm” (xem các bài viết trước) thì với ái dục – vô minh tập nhiễm nhiều đời, khi chùa chiền tổ chức Lễ Hằng Thuận cho lứa đôi, minh chứng và chắp cánh cho đời sống hôn nhân được bay bổng thì tu sĩ có dễ dàng điều phục thân tâm, giữ nổi các căn chẳng loạn động?
Với lương duyên thế tục mình chứng minh và chúc phúc trước mắt, tu sĩ có thấy, dù chỉ một chút, những rung động, bồi hồi, xao xuyến…chuyện thế gian, để rồi thối thất đạo niệm, đuổi hình bắt bóng những dục niệm và bào ảnh bất tịnh dấy khởi tuôn trào trong tâm? Đó là “nội chướng”, chưa kể đến “ngoại ma” luôn hờ cơ mà khảo đảo, hủy hoại đạo nghiệp của người tu Phật.
Xưa kia, Đức Thích Ca Mâu Ni lúc chưa viên mãn Phật vị đã từng bị Ma nữ dâm dục hiện thân quấy phá, khảo tâm trong suốt 49 ngày đêm thiền định dưới cội Bồ Đề. Nay, thực tế cho thấy có không ít tu sĩ đã không điều phục nổi “chướng ái dục” mà phá Giới, hành dâm tại chốn Phật môn, thậm chí đành phải hoàn tục. Do đó, quý tu sĩ đừng tự đưa Huệ mạng tu hành của chính mình đến bờ vực thẳm, đừng tự trợ duyên cho “nội chướng” và “ngoại ma” hoành hành mà tự đánh mất đạo nghiệp.
3. “Phật Pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”. Đó là phương tiện thiện xảo để dìu dắt, giúp chúng sanh thấm nhuần Chánh Pháp, chuyển mê khai ngộ chứ không phải để “tùy thuận” hay “chứng minh” cho tham, sân, si, dục vọng mê mờ của chúng sanh. Hãy mang vị giải thoát – Bản Lai Diện Mục của Phật đạo – đến với muôn loài chứ đừng pha tạp thêm đủ vị sanh diệt dưới danh nghĩa Như Lai.
Đức Phật đã dạy nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm của mỗi người với chính bản thân mình, với người thân trong gia đình, bạn bè… ngoài xã hội, với quốc gia dân tộc cốt yếu là để hoàn thiện “Nhơn đạo” ở đời cho vuông tròn trước khi bước sang con đường “Phật đạo giải thoát”. Hạnh nguyện của chư Phật là độ tận chúng sanh, giúp chúng sanh khai ngộ được Phật tánh của chính mình.
Do đó, không nên đánh đồng và gán lời Phật dạy với những gì được cho là ý nghĩa hay mục đích của “Lễ Hằng Thuận”, vốn được xem là cách hành (trái) Pháp của đa số Tăng-Ni hiện nay, rồi đồng thuận nhau cổ xúy. Nếu như rồi đây cặp uyên ương nào cũng rủ nhau vào chùa tổ chức cưới hỏi thì không khí trang nghiêm, giải thoát chốn Phật môn có còn chỗ đứng? Tu sĩ rồi sẽ phải bận rộn cho những lễ hằng thuận ấy thế nào, đạo nghiệp giải thoát đi về đâu?
Người đến chùa lễ Phật sẽ không còn chỗ để mà phủ phục, tu hành bởi nơi tôn nghiêm ấy đang được cô dâu, chú rể cùng họ hàng nội ngoại và các Tăng-Ni chuyển “công năng” vào việc khác. Mỗi người sống trên đời đều có vai trò, trách nhiệm và bổn phận riêng. Quý tu sĩ hãy trở về đúng với vai trò của mình là một “Sứ giả Như Lai” chân chánh.
4. Theo quan niệm của đạo Ki tô, cặp đôi nào được đức Cha ban phước tại nhà thờ mới thực sự thành vợ, thành chồng và được hưởng phúc. Điều này dường như không còn là ngoại lệ trong suy nghĩ, dù vi tế, của những người con Phật (?). Hiện nay, bên cạnh rất nhiều “sao” hoạt động trong giới nghệ thuật, còn có rất nhiều bạn trẻ, Phật tử tổ chức lễ cưới trong chùa.
Họ mong một đám cưới được tổ chức trong Chùa, dưới sự minh chứng của Đức Phật và sự chúc phúc trăm năm của chư Tăng – Ni thì không khí sẽ thêm phần thiêng liêng, trang trọng hơn; hạnh phúc vợ chồng sẽ được bền chặt. Vì sao? Bởi cuộc sống thời nay hỗn độn quá, ai cũng sống vội, thực dụng khiến cho mọi thứ cứ rối tung lên, thay đổi xoành xoạch…
Tình yêu và hôn nhân cũng không ngoại lệ trước bao cám dỗ của tiền tài, vật chất, lợi danh…Sự mong manh, khó nắm bắt dường như vô hình của hạnh phúc khiến cho người trong cuộc bất an, chẳng biết tin vào đâu trong “thế giới phẳng” này thì cửa Phật, như một điều hiển nhiên, là nơi họ sẽ tìm đến để “tự an tâm”, bởi họ nghĩ những gì được nương nhờ nơi cửa Phật, được chư Phật chứng minh thì luôn được che chở, phù hộ an toàn (đã bàn ở mục 1).
Nhưng trên thực tế, cái phúc đó có thực không, hạnh phúc có bền chặt không lại tùy thuộc vào chính sự hòa hợp của 2 vợ chồng và duyên nợ của họ quyết định chứ nào phải ai khác. Dẫu đã từng tổ chức hôn lễ trong chùa, được Tăng – Ni chúc phúc, hoặc có níu kéo, năn nỉ, hay nghe đi nghe lại lời Phật dạy về sự thủy chung, trách nhiệm, bổn phận của vợ chồng đối với nhau đi nữa để hồi tâm cứu vãn khi hôn sự có vấn đề…thì kết cuộc cũng vô phương thay đổi khi 2 người đã hết nợ duyên. Đây là sự tất yếu của luật Nhân-Quả, Vô thường, Duyên khởi mà Đức Phật đã từng khai thị.
Đó là chưa nói đến quý Phật tử đã vô tình tạo nghịch duyên, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự tu hành của Tăng lữ cũng như sự tôn nghiêm cửa Phật (đã bàn ở mục 2). Vì vậy, chúng ta cần có Chánh Kiến, Chánh Tư Duy để tỏ tường, trạch Pháp trước mỗi hành động và quyết định của mình, trong đó có hỷ sự của đời người, sao cho phù hợp với Chánh Pháp Phật.
5. Không còn lạ gì nữa, báo mạng đã từng xôn xao, giật tít tin về đám cưới của một gia đình thuộc hàng “đại gia” được tổ chức ở chùa. Như một trào lưu mới, các nhân vật được quy vào hàng “sao” trong làng giải trí, thể thao, nghệ thuật cũng lần lượt tay trong tay tổ chức lễ cưới hỏi trong chùa.
Ai ai cũng hiếu kỳ, không chỉ đọc qua loa mà còn muốn “mục sở thị” coi họ tổ chức hoành tráng thế nào, bày vẽ ra sao trong chốn Phật môn để rồi lại thở dài ngao ngán: “Đúng là phú quý sinh lễ nghĩa”.
Khi Đạo Phật vượt lên được thế giới công nhận là tôn giáo Từ Bi, Bình Đẳng, Hòa Bình và Khoa Học nhất trong lịch sử đời sống nhân loại… thì những đám cưới của các “sao” có phần nào thỏa mãn tâm tánh chơi trội của những người trong cuộc. Thời buổi công nghệ số, những giá trị nhân văn, đạo đức thậm chí có thể mua bằng tiền cho mục đích đánh bóng tên tuổi, sự nghiệp thì có gì là ngoại lệ, kể cả chốn thiền môn?
Ngược lại, tổ chức những tiệc cưới như thế này, sự cúng dường không hề nhỏ và tu sĩ có quan tâm, lạm Pháp lợi dưỡng?… Và còn nhiều nữa những câu hỏi không có hồi kết. Nếu đúng là như vậy thì than ôi, cửa Phật môn đã bị lấm lem bởi bã lợi danh lắm mùi tục lụy! Thật là xót xa…!
TÓM LẠI
Chánh Pháp Như Lai là Kim chỉ nam để giáo hóa chúng sanh tu tập trên con đường giải thoát. Sự nghiệp hoằng khai Phật Pháp phụ thuộc vào cách hành pháp của mỗi người con Phật, đặc biệt là tu sĩ; tuy nhiên, cần dưới con mắt trạch pháp và trí huệ để việc hành pháp luôn giữ được sự tinh túy vi diệu, tinh thần giải thoát uyên nguyên vốn có của đạo Phật mà giác ngộ cho đời.
Ngược lại, thế tục hóa đạo Phật gây hệ lụy không nhỏ đến Tín tâm, sự định hướng tu hành cũng như huệ mạng của người con Phật; làm mất đi tính “Bản Lai Diện Mục” của Phật đạo trong lòng mọi người, ảnh hưởng đến sự nghiệp hoằng khai Phật Pháp.
Trên tinh thần đó, hôn lễ cưới hỏi hãy gác lại ngoài cửa chùa. Tu sĩ KHÔNG được tổ chức lễ cưới trong chùa, vốn không phù hợp với giáo lý giải thoát nhà Phật. Mọi người nói chung, quý Phật tử nói riêng nếu có hỷ sự thì tốt nhất nên:
- Tổ chức tại nhà hàng hoặc tại tư gia với các món chay thanh đạm phù hợp với đạo Từ Bi, lại đỡ tốn kém xa hoa không cần thiết.
-Trước hoặc sau hôn lễ, đôi uyên ương và gia đình 2 họ có thể đến chùa lễ Phật, đồng thời trình bày nguyện vọng, mong ước chính đáng trong đời sống hôn nhân và gia đình mà mình kỳ vọng để quý tu sĩ ở chùa sắp xếp buổi Pháp đàm phù hợp (Kinh Thiện Sanh, Kinh Ca Thi La Việt…), nơi đó không chỉ có sự thuyết giảng từ Tăng-Ni và lắng nghe một chiều từ Phật tử tại gia mà thật sự là cuộc trao đổi 2 chiều từ 2 phía.
- Quý hóa hơn, có thể kết hợp tiến hành nghi thức Quy Y Tam Bảo cho 2 vợ chồng và những ai phát tâm kỉnh Phật, dạy họ giữ gìn Ngũ giới, hành Thập thiện, Bát Chánh Đạo…
Làm như thế vừa giữ được sự thanh tịnh, trang nghiêm vốn có chốn Phật môn, tinh thần giác ngộ – giải thoát của Phật đà mà vẫn mang lời Phật dạy phổ biến đến với mọi người, giúp tốt Đời – đẹp Đạo.
Mong tất cả tỉnh tâm tu Phật!
Cổ Thiên