;
Đức cần kiệm, tri túc, bình dị của HT. Thích Trí Tịnh
Tiểu sử Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh
Trang nghiêm lễ tưởng niệm năm thứ 7 ngày Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh viên tịch
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật).
Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
Sáng ngày 12/02 âm lịch (04/03/2012), Sư Ông thức dậy sinh hoạt như thường ngày, rửa mặt, dùng tiểu thực. Lúc đó Sư Ông ra hiệu lấy cái bảng rồi ghi lên đó là ngày chủ nhật, 04/03/2012 (nhằm ngày 12/02/âm lịch). Thật ra hơn một tháng nay, Sư Ông không hề ra khỏi phòng thì ngày tháng năm làm sao Sư Ông nhớ. Vậy mà lạ thay, Sư Ông lại ghi đúng chính xác ngày tháng năm cả đến thứ mấy không hề sai.
Ngày 21/02 âm lịch (13/03/2012): Hôm nay là ngày vía đức Phổ Hiền Bồ tát. Vào lúc 8 giờ 30 sáng, Sư Ông lấy áo hậu mặc vào, lên giường, Sư Ông ngồi, tư thế bán già trong dạng thiền định khoảng 10 phút rồi xả ra.
Ngày 22/02 âm lịch (14/03/2012): Lúc 6 giờ sáng, khi chuẩn bị làm thức ăn sáng cho Sư Ông tôi chợt nhìn vào phòng thì thấy Sư Ông đã mặc áo hậu lúc nào mà không ai hay biết, hỏi Thầy Luân, Thầy cũng không biết, ngay cả việc Sư Ông đi vào phòng vệ sinh cũng không ai biết luôn. Vì mọi ngày những việc sinh hoạt, hay việc đi vệ sinh của Sư Ông đều phải có người bên cạnh, để phụ đỡ cho Sư Ông đỡ nhọc. Vậy mà lần này Sư Ông tự làm một mình.
Với vẻ mặt đầy hoan hỷ, Sư Ông mỉm cười và chỉ vào mình, ý nói hôm nay Ông mặc áo có đẹp không. Sau khi dùng tiểu thực, Sư Ông ra hiệu tụng kinh Phổ Hiền. Thật ra mấy tháng nay, Sư Ông tịnh khẩu niệm Phật nên không nói chuyện với ai hết, có cần gì thì Sư Ông ghi lên giấy nên ngay việc tụng kinh cũng tụng thầm. Tụng kinh xong Sư Ông đi ra vườn dạo và ngắm cảnh.
Khoảng 15 giờ chiều cùng ngày, Sư Ông ghi lên giấy dòng chữ:“Mới dứt được việc đời”. Không ai hiểu ý Sư Ông nên thưa hỏi, Sư Ông viết tiếp: “Có quyển kinh Mi Đà không?. Lúc lấy kinh đưa cho Sư Ông thì Sư Ông lật đến trang có câu “…văn thuyết A Mi Đà Phật chấp trì danh hiệu…”Sư Ông nói Ông niệm Phật được đến đây và dặn mọi người phải tập niệm Phật.
Sư Ông dạy được đến chấp trì danh hiệu thì điều kỵ nhất là nói chuyện. Niệm Phật cứ ba câu lần một hạt. Một thời như vậy là một sâu, rồi sau tăng lần lên năm câu, bảy câu, mười câu. Một thời một xâu rất dễ nhiếp tâm.
Hôm nay, Sư Ông hỏi là ngày mấy, được biết là ngày 25/02 âm lịch. Mấy bữa nay chân của Sư Ông bị sưng. Sư Ông nói: “Đây là triệu chứng khí nghịch, đàn ông sưng chân, đàn bà sưng mặt, triệu chứng sắp vãng sanh”, Sư Ông lại ghi ba câu:
“Chấp trì danh hiệu
Bất niệm tự niệm
Niệm lực tương tục”
Ba câu trên đồng một nghĩa. Ông chỉ được đến đó thôi, còn nhất tâm bất loạn tam muội khó lắm. Buổi tối ngày 24, Sư Ông lại ghi trên bảng “Vấn đề chỉ nội một tuần từ 24/03/âm lịch đến ngày 01/04 âm lịch”
09h sáng ngày 25, Hòa thượng Thiện Pháp đến. Sư Ông cũng lại ghi trên giấy là “Vấn đề giải quyết nội trong bảy ngày”, mọi người đều không hiểu rõ nên cứ gạn hỏi. Sư Ông mới ghi lên hai chữ “Hết Thở”. Lúc đó mọi người đều bàng hoàng lo sợ.
Tất cả đều bật khóc, cảm thấy bất an trước những dòng chữ của Sư Ông. Tôi liền qua gấp báo cho Thầy Tri sự (HT. Hoằng Tri) hay, vừa run không thốt được ra lời, tôi gắng lấy lại bình tĩnh và nói từng chữ cho Thầy nghe. Thầy nghe xong nét mặt thay đổi hẳn, nước mắt như muốn trào ra. Thầy vội vàng chạy lên Sư Ông. Lúc đó Sư Ông đang dùng bữa. Sư Ông lại ghi :”Bảy ngày cũng mau cứ để…” rồi Sư Ông nhìn mọi người với nụ cười hoan hỷ.
Sáng ngày 26, được tin Hòa Thượng ở Văn Phòng II lên thăm, Sư Ông ngồi chơi hồi lâu qua bàn lấy giấy ghi: “Ông không có bệnh hoạn gì hết, nghe êm ái nhẹ nhàng, ăn nhiều, ngủ yên, chỉ có yếu thôi vì tuổi cao (96 tuổi). Bây giờ chỉ lo tương lai cho đời sau, mấy huynh đệ phải lo đời hiện tại và luôn nhớ: Hãy khoan hồng tha thứ, biết thiện thì theo, nhớ phải ăn chay, không được ăn thịt chúng sanh cố gắng giữ…nếu ăn thịt chúng sanh thì không còn gì nói nữa”.
Ngày 29, buổi sáng, Sư Ông đi ra ngoài dạo, ngắm cảnh và xem đồng hồ coi lịch ngồi bên khung cửa cạnh cây sa-la. Lúc đó, quý Thầy ở dưới chùa lên, y hậu chỉnh tề. Đi đầu là HT. Hoằng Thông, thầy Hoằng Tri, thầy Hoằng Chí,…tác bạch thỉnh Sư Ông trụ thế lâu dài, nhưng Sư Ông không nói gì, rồi đứng dậy đi thẳng vào phòng. Cứ như vậy, đại chúng đã bốn lần mời thỉnh mà Sư Ông vẫn yên lặng.
Trưa ngày 30, khi tôi bưng mâm cơm lên, vừa bước vào đến cửa thì Sư Ông chỉ tay hướng dẫn bưng vào phòng. Sư Ông kêu dọn ghế và ra hiệu bảo mọi người ngồi ăn cơm chung.
Hôm nay là ngày thứ sáu kể từ ngày Sư Ông viết lên bảng nội dung trong bảy ngày. Thật ra, mấy tháng nay, Sư Ông không nhìn vào mâm cơm thế mà hôm nay lại kêu mọi người ăn chung, tất cả ai cũng nghĩ đây là bữa cơm cuối cùng.
Mọi người đều yên lặng và ngậm ngùi. Dùng xong, một lần nữa thầy Tri sự lại thỉnh cầu Sư Ông trụ thế nhưng cũng không được. Đến 06 giờ chiều, Sư Ông từ giường ngồi dậy thì liền hỏi: “Thầy Tấn (HT. Hoằng Tri) xin gì?”
Mọi người đáp: “Thầy xin Sư Ông trụ thế”
Sư Ông mới ghi: “Bây biểu chúng nó đừng ăn thịt”
Cô Biện (Phật tử): “Dạ ở đây ai cũng ăn chay hết”.
Sư Ông đưa hai ngón tay lên và dang bàn tay ra hiệu, ý muốn nói là người ăn chay thì ít như hai ngón tay còn người ăn mặn thì đầy dẫy. Mọi người vừa thưa, vừa khóc. Sư Ông kết thúc bằng hàng chữ: “Ông tự biết mình phải làm gì!”
Vào lúc 04 giờ sáng, ngày 01/04 (âm lịch). Cũng là ngày cuối cùng trong kỳ hạn. Sư Ông dậy đi qua bàn ngồi thì liền hỏi “Thiệt hay giả”. Tất cả đều lúng túng không biết trả lời sao, người nói thiệt, người nói giả, còn Sư Ông thì chỉ lắc đầu.
Những lời dạy Sư Ông phát ra đã in sâu vào tâm khảm của con và nó đã trở thành những kỷ niệm đáng nhớ, không gì có thể xóa nhòa được. Những kỷ niệm này sẽ theo con suốt cả cuộc đời và có thể mãi mãi đời sau nữa.
Chính những kỷ niệm này là kim chỉ nam để con làm hành trang trên bước đường tu tâm học Phật.
Con thành tâm cầu mong Tam Bảo gia hộ, tiếp dẫn Giác Linh Tôn Sư cao đăng Phật quốc, sớm trở lại hóa độ chúng sanh đồng lên bờ giác.
Thị giả Hoằng Thạch lược kể - Chùa Vạn Đức
--------------------------------------------
SƠ LƯỢC CÁC SỰ TÍCH VÃNG SANH
Từ xưa tới nay, muôn ngàn người ăn ở hiền lành, phần đông trước khi chết đều bị mê muội, không ai biết trước ngày giờ chết để tắm gội sạch sẽ, tỉnh táo niệm Phật hoặc biết có mùi thơm hay nghe tiếng nhạc trên không. Duy chỉ có những người tu Tịnh độ khi mãn phần có những điều dị thường như trên thì biết chắc hồn về Cực lạc.
Nay xin kể lại sơ lược một vài sự tích vãng sanh xưa và nay tại nước Tàu và Việt Nam ta để quí vị Ðạo Tâm rộng đường suy xét hầu tu theo Tịnh độ. Chẳng những người tu có kết quả mà loài thú biết niệm Phật cũng đặng vãng sanh nữa.
1.- Ðời Ðường bên Tàu, Cư sĩ Minh Chiêm tuổi già mới tu Tịnh độ. Ông rất tinh tấn ngày đêm niệm Phật chẳng dứt. Có kẻ nói: ‘’Ông tu muộn quá e không kịp vãng sanh’’. Ông Minh Chiêm nói: Niệm Phật từ một tới mười câu còn thấy Di Ðà, ta lo chi không đặng vãng sanh. Sau vì bị bệnh nên ông vào chùa Hưng Thiên, lúc quá Ngọ, ông ngồi chắp tay xây mặt qua hướng Tây mà niệm Phật. Giây lâu ông nói rằng: Phật với Quan Âm, Thế Chí đều đến rước ta. Nói xong bái rồi hết thở.
2.- Ðời Tống, ba cha con của Ngụy thế Tử với một quận chúa đều tu theo Tịnh độ, trừ ra phu nhân là ăn mặn. Sau quận chúa chết yểu: sau khi liệm xong, quàn lại bảy ngày bổng nghe tiếng la từ trong quan tài ‘’Ngộp lắm’’ nội nhà mừng quá cạy nắp quan tài ra, cùng lúc ấy tiếng nhạc trên không trung trổi lên. Quận chúa bước ra thưa với mẹ rằng: Thưa mẹ, nước Cực lạc rất vui, trong ao Thất Bửu có nhiều bông sen búp lớn gần bằng bánh xe, ngoài cánh sen, cái thì nêu tên cha, hai bông nọ còn có tên hai anh nữa, con kiếm cùng không có tên mẹ nên con xin phép Ðức Phật Di Ðà về đây báo tin và khuyên mẹ mau tu Tịnh độ thì sẽ có một bông sen mọc ra dành cho mẹ cũng như của cha, của hai anh và của con vậy. Phật sẽ đem tòa sen ấy rước mẹ về cho Liên hoa hóa thân, ở cung đền rất cao. Muốn mặc y phục gì thời có hiện tới. Muốn ăn vật chi đều có món đó, đựng trong bát thất bảo hiện tới trước mặt, dùng xong bát biến mất khỏi rửa. muốn nghe nhạc chi thì nhạc ấy vào tai, bằng không muốn nghe thì nhạc liền dứt. Mỗi người đều có hào quang, muốn dùng một hương nào có mùi hương nấy. Ðược dạo xem trăm thứ hoa thơm. Muốn ăn trái cây chi liền hiện tới khỏi hái, Ngự tửu. Phong cảnh xinh đẹp hơn thế gian trăm bề. Vả lại không có Nhật Nguyệt Tinh Tú, chỉ có hào quang sáng hơn ban ngày thập bội. Có bảy thứ chim tốt lạ; có năm sắc lông, tiếng kêu êm ái như tiếng kệ kinh. Lại mát mẻ như mùa xuân, không có mùa nực và mùa lạnh. Học đặng Lục thông, thành bậc La Hán, đi dạo trên khắp thế gian.
Tòa sen bay lẹ như nháy mắt nên con đi về đây mau tợ khảy móng tay đã tới. Việc ở Cực lạc khoái lạc mười phần kể sao cho xiết. Xin mẹ ráng tu, sau lâm chung Phật rước về đó mà thấy đủ điều. Con không dám trễ phép, cúi xin bái tạ cha mẹ con lên tòa sen về nước Cực lạc. Quận chúa tạ xong rồi bước vô quan tài mà nhắm mắt. Mùi sen thơm ngát, hào quang chiếu sáng xẹt về hướng Tây, tiếng nhạc trên không cũng trỗi lần về hướng ấy.
Từ đấy phu nhân mới tinh tấn trường chay, tu theo Tịnh độ niệm Phật hơn chồng con. Sau mỗi người lâm chung đều biết ngày giờ trước. Ðến ngày Liễu đạo, phu nhân ngồi day mặt về hướng Tây, niệm Phật chưa đủ mười câu đã nghe tiếng nhạc trên không, thấy Phật rước mình đông lắm. liền khi ấy, bà xuất hồn về cùng chư Phật. Bốn người lâm chung như vậy thiệt cả nhà có phước, sống hưởng lộc, thác được vãng sanh.
3.- Ðời Tống, Dương Kiệt ở Châu Vô Vi, xưng hiệu Vô Vi Tử, thi đỗ sớm làm quan. Ði điểm tội nhân ở tỉnh Chiết Giang, vì mộ đạo Phật nên học kỹ phép tham thiền, xem kinh nhiều lắm. Ông nói với bạn rằng: ‘’Chúng sanh nhiều người tối dạ, tham thiền không đúng uổng công. Trừ ra tu Tịnh độ dễ hiểu, dễ tu. Dầu bao nhiêu kẻ dốt, tu cũng được vãng sanh.’’ Người có viết Thiên Thai Thập Nghị Luận và Tịnh Ðộ Quyết Nghi Tập; giảng rõ phép tu tịnh độ. Tuổi già, ông vẽ tượng Di Ðà cao 16 thước mộc thờ lạy. Ðến lâm chung, Phật định ngày rước hồn, ngài ngồi mà viên tịch.
4.- Ðời Tùy, có ông Tống Mãn ở Phủ Thường Châu, niệm Phật một câu; để một hạt đău đen vô hộc. Lâu năm lường được cỡ 15 giạ. Khai Hoàng niên hiệu thứ tám, tháng chín đãi trai tăng, các sãi ăn rồi ngồi niệm Phật đến hết thở. Người ta thấy trên trời sa xuống mùi hương thơm một cách lạ lùng. Có tiếng nhạc trời trên không lần qua hướng Tây hồi lâu mới dứt.
5.- Ðời Ðường, có ông Trịnh mục Khanh, và cả nhà đều niệm Phật. Niên hiệu Khai ngươn, ông bị bệnh nặng, có người khuyên trở đũa (ăn mặn), ông không chịu. Tay bưng lư hương niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ. Xảy ngửi mùi thấy hương thơm nức. Người ông liền xuất hồn. Cậu là Tô Ðỉnh, làm chức thượng thư, chiêm bao thấy ông ngồi trên bông sen lớn.
6.- Ðời Minh Liên, Hoa thái Công là người nước Việt, thiệt thà ngày đêm niệm Phật chẳng ngớt. Ðến lúc mãn phần liệm vô quan tài chưa kịp đem chôn, bổng nhiên một cánh bông sen mọc trên quan tài, xóm giềng khen ngợi, mới tin ông không biết chữ mà tu tịnh độ cũng được vãng sanh.
7.- Ông Trịnh Sanh là bà con bên vợ của ông Châu an Sĩ (Tác giả quyển Tây Qui Trực Chỉ), tuổi nhỏ học hay, thói quen hay kiêu ngạo, không tin Phật cho lắm. Ngày kia có bệnh, thấy quỉ đến, cao lớn dị thường, xưng là oan cừu đời trước. Trịnh Sanh sợ điếng mới niệm Phật hẳn hòi, cầu vãng sanh cực lạc. Hễ niệm Phật thường thì thôi, nếu hở ra thấy quỉ nên Trịnh Sanh ráng niệm tới mòn hơi. Người nhà thấy không biết cái gì mà mờ mờ như mây khói bay lần qua hướng Tây. Tuy không thấy điềm biết trước và không có mùi hương cùng Thiên nhạc, song cứ lý chắc đặng vãng sanh bởi vì ông ít khi niệm Phật nên không đặng linh hiển đó thôi.
8.- Tô kỳ Sơn tự Khởi Phụng, ở Côn Sơn, tuổi thơ quyết chí tham thiền, tìm nhiều thầy thông thái, nên nghe rành Tịnh độ không dám sát sanh. Tuổi già tu tịnh độ theo bốn thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu tụng nhựt khóa không lơi. Mùa đông trời lạnh ôm mền mà ngồi.
Khương Hy năm Kỷ Mão, ngày 26 tháng 11 giờ Ngọ, ông nói vớI cháu tên Ðiện Phương rằng: ‘’Ông tu Tịnh độ đã thành công, Phật mach bảo giờ vãng sanh đã ba bữa trước, ông không muốn khoe cho chúng biết đêm nay tới giờ Tý ông sẽ được vãng sanh.’’ Lúc canh hai ông mặc áo dài ngồi trước bàn hương án bảo người nhà niệm Phật tiếp với mình, qua canh ba tiếng ông niệm Phật nhỏ dần cho tới hết thở.
9.- Ngô kính Sơn ở cùng xóm với Tô kỳ Sơn. Tuổi ông đã bảy mươi nhưng ông lại muốn học thêm phép tham thiền. Tô Ðiện Phương nói với ông: ‘’Tuổi ông đã già rồi ông nên tu tịnh độ cho mau mà chắc vãng sanh hơn tham thiền’’. Ông vâng lời niệm Phật ngày đêm chẳng dứt. Thời gian chưa đầy một năm, bà con ông Ngô kính Sơn đến nói với ông Tô điện Phương hay rằng: ‘’Hồi sớm mai này Ngô kính Sơn thấy ông hộ pháp hiện hình, tiếp dẫn vãng sanh nên dặn tôi coi chừng ông tắt hơi rồi thì qua cho ông hay mà tạ ơn khi trước đã khuyên ông tu tịnh độ. Dặn rồi ông ngồi day mặt qua hướng Tây niệm Phật đến hết thở.’’
10.- Ðời Ðường, thầy Duy Ngạn tu Tịnh độ rất siêng năng. Thấy Quan Âm, Thế Chí hiện trên không thầy mừng muốn họa chân dung hai vị Bồ Tát, liền khi ấy hai vị hiện đến xin vẽ rồi biến mất.
Thầy Duy Ngạn nói với các đệ tử rằng: ‘’ Ta bữa nay được vãng sanh, đứa nào muốn theo ta cho có bạn?’’ Có một trò nhỏ xin theo, thầy bảo về cho cha mẹ hay, nếu bằng lòng thì lạy tạ rồi đi cho mau. Cha mẹ đồng tử tưởng nó nói chơi nên cười mà bảo rằng: ‘’Tự ý con theo thầy về Tây phương đặng thì cha mẹ cầu lắm.’’ Ðồng tử tắm gội thay áo lại ngồi gần thầy niệm Phật mới có mười câu rồi hết thở, chết ngồi. Cha mẹ sững sờ hết nói chi được. Thầy Duy Ngạn cũng lấy làm lạ, đặt bài kệ khen đồng tử rồi ngồi tịch theo.
11.- Họ Ngô ở tỉnh Chiết Giang, ông cha đều là tú tài dưới triều Thanh, Thuận Trị năm đầu. Binh tới vây thành, cha mẹ ông bà đều chạy trốn hết. Ông họ Ngô ấy bị bắt sống dâng cho Trương tướng quân thâu làm lính hầu mới mười ba tuổi. Nghĩ rằng mình con nhà học trò, nay làm hèn hạ cũng tội báo tiền căn. Ông liền giác ngộ xin vào chùa lạy Phật ăn chay trường. Mỗi đêm ông tụng một cuốn kinh Kim Cang và niệm Phật. đến năm 16 tuổi, Trương tướng quân đem bạc phát lương cho lính, họ Ngô nhín tiền lương của mình mà thỉnh tượng Ðức Phật Di Ðà rồi mua đèn hương về cúng lạy niệm Phật và tụng kinh Di Ðà. đến năm Ðinh Dậu ngày 22 tháng 10, họ Ngô bẩm với Trương tướng quân rằng: ‘’Tôi muốn về Tây phương’’. Tướng quân mắng rằng nói láo. Bữa sau họ Ngô đến dinh quan đề đốc xin nghỉ phép, Ðề đốc giận giao cho tướng quân đánh đòn 15 roi mà ông không hề than; lại từ giã các quan đinh rằng: ‘’Mùng 1 tháng 11 tôi sẽ về Tây phương.’’ Ðến ngày ấy ông tắm gội sạch sẽ, lúc canh năm mặc đồ xong thắp hương đèn lạy Phật rồi tạ Trương tướng quân trong thuyền đặng về theo Phật. Trương tướng quân tức giận sai lính đi tới chỗ chất củi làm giàn thiêu. Họ Ngô lạy hướng Tây ba lạy rồi lên ngồi trên đống chà bổi niệm Phật rồi ngâm một bài kệ, liền hả miệng ra phun lửa thiêu mình. Quân lính báo tin, quan tướng các dinh đều tựu lại đưa. Trương tướng quân kính phục, từ đấy nội nhà ăn chay, tu Tịnh độ theo cách họ Ngô giảng khi trước.
12.- Ông Thẩm thừa Tiên ở Côn Sơn, tại chợ Tuyên Hóa làm nghề thợ mộc. trên bảy mươi tuổi ăn trường chay niệm Phật tu tịnh độ. Tuy tay không hở đục và rìu búa mà niệm Phật chẳng ngừng. Ðến năm Khương Hy thứ mười, tháng ba ông biết ngày Phật rước. Trước ba bữa giã từ bà con bạn hữu và nói ngày giờ mình vãng sanh. Từ giã rồi sao không thấy rước khác nữa. Ông nói với con dâu rằng: ‘’Mai là rằm cha sẽ vãng sanh Tây phương’’. Rạng ngày gội tắm thay áo, ngồi xây mặt về hướng Tây, trước mặt để ghế thắp hương rồi niệm Phật. Ban đầu niệm lớn, dần dần nhỏ đến khi mòn hơi.
13.- Ðời Ðường, vợ của ông Ôn tịnh Văn ở Tinh Châu, bệnh nằm liệt giường đã lâu. Chồng khuyên niệm Phật, vợ vâng lời nằm niệm cả năm. Ngày kia chiêm bao tỉnh giấc thưa với chồng rằng: ‘’ thiếp thấy Phật mach bảo tháng sau sẽ vãng sanh’’, và dặn cha mẹ chồng ráng niệm Phật sau chắc vãng sanh như mình. Tới kỳ ngồi dậy niệm Phật bỏ xác.
14.- Ðời Tống có Cung Thị ở huyện Tiền Ðường, ngày đêm niệm Phật tụng kinh Di Ðà. Sau có bịnh rước thầy giảng kinh. Giảng chưa rồi, bà ngồi chắp tay hết thở. Có người thiếp già cũng niệm Phật không ngớt. Ðêm nọ Cung Thị về báo mộng, mach bảo rằng: ‘’ Ta đã về Tây phương Cực lạc, bảy ngày nữa người cũng vãng sanh’’. Ðến ngày ấy, bà thiếp đang mạnh mà chết ngồi.
15.- Ðời Tống, có bà Trương thị Nữ ở quận Phần Dương, bệnh đui cặp mắt. gặp người ta khuyên niệm Phật bà liền nghe theo. Ba năm sau mắt bà sáng lại như cũ. Sau thấy Phật và Bồ Tát đem phướng và Bảo Cái đến rước, liền ngồi mà mãn phần.
16.- Trào Thanh có bà Hạo Thi ở huyện Ty Lăng, là vợ của ông Phan hướng Cao, cũng là cư sĩ. Vợ chồng đồng tu Tịnh độ, tụng kinh Kim Cang. Hôm mai tụng nhật khóa niệm Phật y phép.. .Khương Hy năm Canh Thân tháng 7 có bệnh, biết trước ngày 27 giờ Ngọ tạ thế. Bà nói trước cho con cháu hay. Ðến kỳ, con đến mời các đạo hữu đến niệm Phật tiếp và ngồi niệm Phật đến mãn phần.
Trích trong Tây-Qui Trực-Chỉ và Lão-Nhơn Ðắc-Ngộ
Ðôi Liễn Ấn-Quang Pháp-Sư
Soạn giả: Cư Sĩ Thiện-Tâm