;
I.Thiền sư Đạo Xước lập Thánh đạo môn và Tịnh độ môn, nhưng bỏ Thánh đạo mà trở về Tịnh độ
TRÍCH DẪN
An Lạc Tập , quyển thượng ghi: “ Hỏi: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, lẽ ra từ bao kiếp lâu xa đến nay đã gặp nhiều Phật, vì sao đến hôm nay vẫn còn luân hồi trong sanh tử, chưa thoát khỏi nhà lửa ?
Đáp: Theo Thánh giáo Đại thừa, do chúng sanh không có được hai pháp tôn quí: Thánh đạo và Tịnh độ để dứt trừ sanh tử, nên không thể ra khỏi nhà lửa. Đời nay, nếu thực hành theo Thánh đạo môn rất khó chứng ngộ, bởi cách Phật quá lâu và nghĩa lí sâu xa, khó hiểu. Cho nên kinh Đại Tập Nguyệt Tạng ghi: “Trong thời mạt pháp của ta, vạn vạn chúng sanh khởi hạnh tu tập, nhưng không ai chứng ngộ”. Nay đúng vào đời năm trược ác thời mạt pháp, chỉ có môn Tịnh độ mới là con đường giúp tất cả chúng sanh vào đạo. Cho nên Đại kinh ghi: “Nếu có người một đời tạo ác, lúc lâm chung niệm danh hiệu ta liên tục mười niệm mà không được vãng sanh, ta sẽ không thành Chánh giác”.
Hơn nữa, chúng sanh không tự suy xét, đối với Đại thừa thì chưa từng chuyên tâm nơi Đệ nhất nghĩa không, chân như thật tướng; đối với Tiểu thừa thì chưa từng tu tập đoạn năm kiết dưới , trừ năm kiết trên để vào Kiến đế tu đạo cho đến chứng A-na-hàm , A-la-hán ; còn đối với phước báo trời người thì hiếm có người giữ được năm giới cấm, mười điều thiện. Nhưng nói về làm ác, tạo tội thì khác nào gió táp mưa sa! Do đó, các Đức Phật khởi lòng đại bi, khuyên chúng sanh trở về cõi Tịnh. Dẫu có một đời tạo ác, nhưng luôn chuyên tinh niệm Phật, ắt các chướng tự trừ, nhất định được vãng sanh. Như thế, sao không suy nghĩ kĩ mà hướng tâm về.
LUẬN RẰNG
Trộm nghĩ, tùy theo chủ trương của mỗi tông mà lập giáo nhiều hay ít để phán định giáo pháp trong một đời của Đức Phật . Như tông Hữu tướng thì lập ba thời là Hữu giáo , Không giáo và Trung đạo giáo . Tông Vô tướng thì lập hai tạng là Bồ-tát tạng và Thanh văn tạng. Tông Hoa Nghiêm thì lập năm thời là Tiểu thừa giáo, Thỉ giáo, Chung giáo, Đốn giáo và Viên giáo, gồm thâu tất cả các giáo. Tông Pháp Hoa thì lập bốn giáo là Tạng, Thông, Biệt, Viên và năm vị là sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ để gồm thâu tất cả giáo. Tông Chân Ngôn thì lập hai giáo là Hiển và Mật. Còn tông Tịnh Độ, thiền sư Đạo Xước lập hai môn là Thánh đạo môn và Tịnh Độ môn để phán định giáo pháp trong một đời của Đức Phật.
Hỏi: Về tên gọi các tông, chỉ có tám tông hoặc chín tông như Hoa Nghiêm, Thiên Thai… chứ chưa nghe nói có tên tông Tịnh Độ. Nay nói tông Tịnh Độ là căn cứ vào đâu?
Đáp: Về căn cứ để lập tên tông Tịnh Độ thì rất nhiều. Như trong bộ Du Tâm An Lạc Đạo của sư Nguyên Hiểu ghi: “Bản ý của tông Tịnh Độ gồm cả phàm phu và thánh nhân”; Tây Phương Yếu Quyết của đại sư Từ Ân ghi: “Y cứ vào Tông này…”; Luận Tịnh Độ của ngài Ca Tài ghi: “Một Tông này chính là con đường thiết yếu…”. Văn minh chứng như thế, các ông không nên nghi ngờ! Nhưng ý chánh của tập sách này, không phải bàn đến phán giáo của các tông mà chỉ nói đến hai môn của Tịnh độ mà thôi.
1. Thánh đạo môn: Môn này bao gồm Đại thừa và Tiểu thừa. Trong Đại thừa tuy có cả Hiển giáo, Mật giáo, Quyền giáo, Thật giáo, nhưng ý của tập sách này chỉ giữ lại Hiển đại thừa và Quyền đại thừa. Cho nên căn cứ theo công hạnh tu hành trải qua nhiều kiếp, thì nên giữ Mật thừa và Thật đại thừa, đó chính là các tông Chân Ngôn, Phật Tâm , Thiên Thai , Hoa Nghiêm, Tam Luận , Pháp Tướng , Địa Luận , Nhiếp Luận ngày nay. Nên biết, bản ý của tám tông chính là chỗ này. Tiểu thừa chính là giáo pháp bàn về hàng Thanh văn , Duyên giác đoạn hoặc chứng lí, nhập thánh đắc quả ghi trong kinh luật luận. Căn cứ theo đó, Tiểu thừa gồm các tông Câu-xá , Thành Thật và Luật tông mà thôi.
Đại ý của Thánh đạo môn, không luận là Đại thừa hay Tiểu thừa, tất cả đều ở nơi thế giới Ta-bà này tu pháp tứ thừa là Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật thừa mà đạt được quả tứ thừa.
2. Vãng sanh Tịnh độ môn: gồm hai phần: a. Kinh luận chính nói về vãng sanh Tịnh độ. b. Kinh luận phụ thuộc nói về vãng sanh Tịnh độ.
a. Kinh luận chính: gồm kinh Vô Lượng Thọ , kinh Quán Vô Lượng Thọ , kinh A-di-đà và Luận Vãng Sanh của ngài Thiên Thân . Ba bộ kinh này gọi là Tịnh Độ tam bộ kinh (ba bộ kinh chính của tông Tịnh Độ).
Hỏi: Về từ ngữ “Tam bộ kinh”có gì để minh chứng chăng?
Đáp: Minh chứng về Tam bộ kinh rất nhiều, như Pháp Hoa tam bộ là kinh Vô Lượng Nghĩa, kinh Pháp Hoa, kinh Phổ Hiền Quán; Đại Nhật tam bộ là kinh Đại Nhật, kinh Kim Cang Đảnh, kinh Tô-tất-địa; Trấn hộ quốc gia tam bộ là kinh Pháp Hoa, kinh Nhân Vương, kinh Kim Quang Minh; Di-lặc tam bộ là kinh Thượng Sanh Đâu-suất, kinh Hạ Sanh, kinh Thành Phật. Ở đây chỉ riêng cho ba bộ kinh về Đức Phật A-di-đà, nên gọi là Tịnh Độ tam kinh. Ba bộ kinh này nói về y báo và chánh báo cõi Tịnh.
b. Kinh luận phụ thuộc: gồm các bộ kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Huỳnh Tùy Cầu, Tôn Thắng và các bộ Luận Đại Thừa Khởi Tín, Bảo Tánh, Thập Trụ Tì-bà-sa, Nhiếp Đại Thừa… nói về hành nghiệp vãng sanh Tịnh Độ.
Tập sách này nêu hai môn Thánh đạo và Tịnh độ, mục đích là muốn khuyên mọi người bỏ Thánh đạo mà quay về Tịnh độ, với không ngoài hai lí do vừa nêu trên là, Thánh đạo cách Phật quá lâu và lí Đại thừa sâu xa khó hiểu. Tông Tịnh Độ lập hai môn này, không chỉ là ý của các ngài Đạo Xước, Đàm Loan , Thiên Thai Trí Khải , Ca Tài, Từ Ân…mà bồ-tát Long Thọ cũng đồng như thế. Như Vãng Sanh Luận Chú của Đàm Loan có ghi: “Luận Thập Trụ Tì-bà-sa của bồ-tát Long Thọ nói rằng: Bồ-tát cầu A-tì-bạt-trí cần phải có Nan hành đạo (khó thực hành) và Dị hành đạo (dễ thực hành). Nan hành là do trong đời năm ác trược không có Phật xuất thế, khó cầu được A-tì-bạt-trí. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến khó đạt, ở đây lược nói năm ý mà thôi: 1. Ngoại đạo tu pháp tương tợ thiện làm rối loạn thật pháp của Bồ-tát; 2. Hàng Thanh văn tự lợi, chướng ngại lòng đại từ bi; 3. Kẻ ác không biết hỗ thẹn, không kể tự tha, khinh chê bậc hiền thiện, phá hoại thắng đức; 4. Quả thiện trời người phá hoại hạnh thanh tịnh; 5. Chỉ có tự lực, không có tha lực nhiếp hộ. Những việc như thế nơi nào cũng có. Nan hành đạo cũng giống như đi đường bộ thì khó khăn, gian hiểm.
Dị hành là bởi chỉ cần với nhân duyên tin Phật, nguyện sanh Tịnh Độ, nương vào nguyện lực của Phật liền được vãng sanh cõi nước thanh tịnh. Nhờ oai lực của Phật nhiếp trì liền vào Chánh định tụ của Đại thừa. Chánh định tức A-bệ-bạt-trí. Dị hành cũng giống như đi thuyền thì an vui, nhanh đến”.
Trong đoạn này, nói Nan hành tức là Thánh đạo môn, Dị hành tức là Tịnh độ môn. Nan hành Dị hành, Thánh đạo Tịnh độ, tên gọi tuy khác nhưng chỉ một mà thôi. Các đại sư Thiên Thai Trí Khải, Ca Tài cũng đồng với chủ trương này. Trong lời tựa bộ Tây Phương Yếu Quyết ghi: “Kính nghĩ: Đức Thích-ca mở vận hội lớn làm lợi ích cho những chúng sanh có duyên, xiển dương giáo pháp, tùy theo quốc độ mà ban pháp nhũ thấm nhuần tất cả. Người đích thân gặp được Như Lai giáo hóa thì tỏ ngộ ba thừa , còn kẻ phước bạc nhân sơ thì khuyên quay về Tịnh độ. Tu tập pháp môn ấy là chuyên niệm A-di-đà, đồng thời đem tất cả căn lành có được hồi hướng nguyện sanh. Bản nguyện của Đức A-di-đà là độ Ta-bà , nên hoặc niệm cả một đời, hoặc mười niệm lúc lâm chung, chắc chắn đều được vãng sanh”. Trong lời bạt bộ Tây Phương Yếu Quyết cũng ghi: “Đã sanh vào thời Tượng pháp , cách Phật quá xa, tu tập ba thừa thì không có cách gì khế ngộ. Hai cõi trời người xao động bất an, chỉ bậc trí cao, tâm rộng mới có thể ở lâu; còn kẻ trí thô, hạnh thiển e chìm đắm nơi tăm tối. Như thế cần phải vượt khỏi Ta-bà, gởi tâm nơi cõi Tịnh”.
Trong hai đoạn văn trên, nói Ba thừa chính là Thánh đạo môn, Tịnh độ chính là Tịnh độ môn. Tuy hai tên khác nhau, nhưng đồng một ý, các học giả tông Tịnh Độ cần phải biết ý chỉ này. Dẫu trước đã tu học Thánh đạo môn, nhưng nếu có tâm với Tịnh độ môn thì nên bỏ Thánh đạo môn mà quay về Tịnh độ. Như pháp sư Đàm Loan bỏ giảng thuyết Tứ luận , một lòng quay về Tịnh độ. Thiền sư Đạo Xước xa lìa hạnh nghiệp Niết-bàn rộng lớn mà chỉ hoằng truyền hạnh Tây phương. Các bậc hiền triết xưa còn như thế, thì hàng ngu si thời mạt pháp lại không tuân theo sao?
Hỏi: Các tông thuộc Thánh đạo môn đều có thầy trò nối tiếp truyền trao, như tông Thiên Thai bắt đầu từ Nam Nhạc Huệ Tư, lần lượt truyền cho Thiên Thai Trí Khải đến Chương An Quán Đảnh, Trí Oai, Huệ Oai, Huyền Lãng, Trạm Nhiên. Tông Chân Ngôn thì từ Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim Cang Tát-đỏa đến Long Thọ, Long Trí, Kim Trí, Bất Không. Các tông phái khác cũng đều có huyết mạch tương thừa , còn tông Tịnh Độ chăng?
Đáp: Cũng như các tông thuộc Thánh đạo môn, tông Tịnh Độ cũng có huyết mạch tương thừa. Nhưng tông Tịnh Độ có nhiều thuyết khác nhau. Có thuyết lập huyết mạch phả là: Lô Sơn Huệ Viễn, Từ Mẫn Tam Tạng, Đạo Xước, Thiện Đạo…Ở đây căn cứ theo ngài Đạo Xước và Thiện Đạo để bàn về huyết mạch phả của tông Tịnh Độ. Trong đây cũng có hai thuyết:
- Theo thuyết ghi trong An Lạc Tập, thì bắt đầu Tam tạng Bồ-đề-lưu-chi truyền đến pháp sư Huệ Sủng, pháp sư Đạo Tràng, pháp sư Đàm Loan, pháp sư Đại Hải, pháp sư Pháp Thượng.
- Theo thuyết trong Tăng truyện đời Đường Tống, thì bắt đầu từ Tam tạng Bồ-đề-lưu-chi truyền đến Đàm Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo, Hoài Cảm, Thiếu Khương.
II. Hòa-thượng Thiện Đạo lập Chánh hạnh và Tạp hạnh, bỏ Tạp để tu Chánh
TRÍCH DẪN:
Quán Kinh Sớ quyển 4 ghi: “Căn cứ theo hạnh mà lập tín, nhưng hạnh lại có Chánh hạnh và Tạp hạnh”. Chánh hạnh là hạnh chỉ căn cứ theo các kinh nói về vãng sanh Tịnh độ mà tu tập. Đó là chỉ nhất tâm đọc tụng kinh A-di-đà, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ; chỉ nhất tâm quán tưởng, nhớ nghĩ cảnh y chánh báo và y báo trang nghiêm cõi Tịnh; chỉ nhất tâm kính lễ Đức Phật A-di-đà, chỉ nhất tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà, chỉ nhất tâm khen ngợi, cung kính cúng dường Phật A-di-đà. Tuy nhiên, trong Chánh hạnh lại có hai môn:
- Chỉ nhất tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà, chẳng kể đi đứng nằm ngồi, chẳng luận thời gian lâu mau, niệm niệm miên mật không buông bỏ, không gián đoạn. Đó gọi là Chánh định nghiệp, vì thuận với bản nguyện của Phật A-di-đà.
- Nếu lễ bái, đọc tụng, khen ngợi, cúng dường… thì gọi là Trợ nghiệp.
Ngoài hai hạnh Chánh và Trợ này, tất cả các nghiệp thiện khác đều là Tạp hạnh. Nếu tu tập hai hạnh Chánh và Trợ thì tâm luôn luôn gần gũi, nhớ nghĩ đến Phật, cho nên không gián đoạn. Nếu tu tập Tạp hạnh thì tâm thường bị gián đoạn, tuy có thể hồi hướng được vãng sanh, nhưng đều là hạnh xen tạp.
LUẬN RẰNG:
Đoạn văn trên có hai ý: Một là nói về hành tướng vãng sanh, hai là phân biệt về sự hơn kém của hai hạnh.
1. Hành tướng vãng sanh: Theo hòa-thượng Thiện Đạo, tuy có nhiều hạnh vãng sanh, nhưng đại để được chia làm hai là Chánh và Tạp.
Chánh hạnh lại có phân khai và tổng hợp. Phân khai thì có năm hạnh, tổng hợp thì thành hai hạnh. Năm hạnh: Đọc tụng – Quán sát – Lễ bái – Xưng danh – Khen ngợi cúng dường. Đọc tụng tức là chỉ nhất tâm tụng đọc kinh Quán Vô Lượng Thọ… Quán sát tức chỉ nhất tâm quán tưởng y báo, chánh báo cõi Cực Lạc. Lễ bái tức là chỉ nhất tâm lễ Đức Phật A-di-đà. Xưng danh tức là chỉ nhất tâm xướng niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà. Khen ngợi cúng dường tức là chỉ nhất tâm khen ngợi cúng dường Đức Phật A-di-đà. Nếu chia khen ngợi và cúng dường làm hai thì thành sáu chánh hạnh. Tổng hợp thì thành hai là Chánh nghiệp và Trợ nghiệp. Trong năm chánh hạnh ở trên, hạnh thứ tư là Chánh định nghiệp. Như trong đoạn văn trên ghi: “Chỉ nhất tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà, chẳng kể đi đứng nằm ngồi, chẳng luận thời gian lâu mau, niệm niệm miên mật không buông bỏ, không gián đoạn. Đó gọi là Chánh định nghiệp, vì thuận với bản nguyện của Phật A-di-đà”. Trợ nghiệp tức bốn hạnh còn lại. Như trong đoạn văn trên ghi: “Nếu lễ bái, đọc tụng, khen ngợi, cúng dường… thì gọi là Trợ nghiệp”.
Hỏi: Vì sao chỉ có niệm danh hiệu Phật A-di-đà là Chánh định nghiệp?
Đáp: Trong Quán Kinh Sớ nói: “Vì thuận theo bản nguyện của Đức Phật kia”, nghĩa là xưng danh niệm Phật chính là nguyện xưa của Phật A-di-đà. Cho nên người tu hành nương vào nguyện lực Phật nhất định được vãng sanh. Ý nghĩa của bản nguyện sẽ giải thích sau.
Về Tạp hạnh, Quán Kinh Sớ ghi: “Ngoài hai hạnh Chánh và Trợ này, tất cả các nghiệp thiện khác đều là Tạp hạnh”. Ý nói có vô lượng Tạp hạnh, không thể kể hết, ở đây chỉ vì muốn đối lại với năm Chánh hạnh mà nêu ra năm Tạp hạnh. Đó là:
- Tạp hạnh đọc tụng: Đọc tụng, thọ trì tất cả kinh điển Đại-Tiểu-Hiển-Mật, trừ ba bộ kinh nói về vãng sanh Tịnh độ đã nêu trên.
- Tạp hạnh quán sát: Suy nghĩ, quán sát tất cả những sự lí của các giáo Đại-Tiểu-Hiển-Mật, trừ y báo chánh báo cõi Cưc Lạc
- Tạp hạnh lễ bái: Cung kính lễ bái tất cả các Đức Phật, Bồ-tát, chư thiên, hiền thánh, thế gian, trừ Đức Phật A-di-đà.
- Tạp hạnh khen ngợi cúng dường: Tức khen ngợi, cúng dường tất cả các Đức Phật, Bồ-tát, chư thiên, hiền thánh, thế gian, trừ Đức Phật A-di-đà.
Ngoài ra còn có rất nhiều hạnh khác như: bố thí, trì giới…đều thuộc Tạp hạnh.
2. Phân biệt về sự hơn kém của hai hạnh: Quán Kinh Sớ ghi: “Nếu tu hai hạnh chánh và trợ, thì tâm luôn gần gũi, nhớ nghĩ đến Phật, không gián đoạn, đó gọi là vô gián. Nếu tu Tạp hạnh, thì tâm thường gián đoạn, tuy có thể hồi hướng được vãng sanh, nhưng cũng đều thuộc tạp hạnh”. Căn cứ theo văn thì trong Tạp hạnh có năm đôi đối đãi: Thân-sơ, gần-xa, không gián đoạn-gián đoạn, không hồi hướng-hồi hướng, thuần-tạp.
- Thân-Sơ: Thân, nếu tu hai hạnh chánh trợ, sẽ rất thân thiết với Đức Phật A-di-đà. Cho nên Quán Kinh Sớ ghi: “Chúng sanh khởi hạnh, miệng luôn niệm Phật thì Phật nghe, thân luôn lễ Phật thì Phật thấy, tâm luôn nhớ đến Phật thì Phật biết. Chúng sanh nhớ nghĩ đến Phật, Phật cũng nhớ nghĩ đến chúng sanh. Ba nghiệp của Phật và chúng sanh không bao giờ lìa nhau, cho nên nói là thân thiết”. Sơ, nếu tu Tạp hạnh, miệng không xưng danh hiệu Phật thì Phật không nghe, thân không lễ Phật thì Phật không thấy, tâm không nhớ nghĩ đến Phật thì Phật không biết. Chúng sanh không nhớ đến Phật, Phật cũng không nhớ nghĩ đến chúng sanh. Ba nghiệp của Phật và chúng sanh thường lìa nhau, cho nên gọi là xa cách.
- Gần-Xa: Gần, nếu tu hai hạnh chánh trợ, thì rất gần gũi với Đức Phật A-di-đà. Cho nên Quán Kinh Sớ lại ghi: “Chúng sanh nguyện được thấy Phật, Phật tức thời tùy ý niệm hiện đến trước mặt, cho nên gọi là gần gũi”. Xa, nếu tu Tạp hạnh thì không nguyện thấy Phật, Phật không tùy ý niệm hiện đến trước mặt, cho nên gọi là cách xa.
Thân và cận tuy nghĩa giống nhau, nhưng trong Quán Kinh Sớ, ngài Thiện Đạo chia làm hai, cho nên trích dẫn nơi đây.
- Không gián đoạn-Gián đoạn: Không gián đoạn, nếu tu hai hạnh chánh trợ, nhất định sẽ luôn luôn nhớ nghĩ đến Đức Phật A-di-đà, không bao giờ gián đoạn. Gián đoạn, nếu tu Tạp hạnh, tâm không luôn nhớ nghĩ đến Đức Phật A-di-đà, mà thường gián đoạn.
- Không hồi hướng-hồi hướng: Nếu tu hai hạnh chánh trợ, dẫu không hồi hướng cũng tự nhiên thành tựu sự nghiệp vãng sanh. Cho nên Sớ ghi: “Trong Quán Kinh nói: Mười tiếng niệm danh hiệu Phật, đã phát đầy đủ mười nguyện, tu mười hạnh. Vì sao? Vì Nam-mô tức là qui mạng , cũng có nghĩa phát nguyện hồi hướng; A-di-đà Phật tức là hạnh. Vì nghĩa này, cho nên nhất định được vãng sanh”. Hồi hướng, nếu tu Tạp hạnh thì cần phải hồi hướng mới thành tựu nhân vãng sanh. Cho nên Quán Kinh Sớ ghi: “Tuy có thể hồi hướng được vãng sanh…”
- Thuần-Tạp: Nếu tu hai hạnh chánh trợ, thì hoàn toàn là hành nghiệp Cực Lạc, còn tu các hạnh khác thì không phải thuần nhất hành nghiệp Cực Lạc. Vì chung cho cả hành nghiệp trời người và cả Tam thừa, cũng như chung cho khắp các cõi Tịnh trong mười phương, cho nên gọi là tạp. Người tu hành nghiệp Tây phương, cần phải bỏ Tạp hạnh mà tu Chánh hạnh.
Hỏi: Hai nghĩa thuần và tạp này có được xác chứng trong kinh luận không?
Đáp: Trong kinh luật luận Đại-Tiểu thừa có rất nhiều chứng cứ về việc thành lập hai môn thuần tạp. Như Đại thừa lập tám tạng , một là Tạp tạng, bảy là Thuần tạng; trong bốn bộ A-hàm của Tiểu thừa có một Tạp A-hàm, ba là Thuần A-hàm; trong Luật lập hai mươi kiền-độ để nói về giới hạnh, trong đó mười chín kiền-độ trước là Thuần, một kiền-độ cuối cùng là Tạp; Luận cũng lập tám kiền-độ để nói về tánh tướng các pháp, bảy kiền-độ trước là Thuần, một kiền-độ sau là Tạp. Về tập truyện Hiền thánh, các bộ Đường Cao Tăng truyện và Tống Cao Tăng truyện có lập mười khoa để nói về đức hạnh của các cao tăng, trong đó chín khoa trước là Thuần, một khoa sau cùng là Tạp; cho đến trong Đại Thừa Nghĩa Chương cũng lập năm tụ, bốn tụ trước là Thuần, một tụ sau là Tạp. Không chỉ Hiển giáo, Mật giáo cũng có Thuần-Tạp. Như trong Sơn Gia Huyết Mạch Phả ghi: “1, Thai tạng giới mạn-đồ-la huyết mạch phả, một thiên; 2, Kim cang giới mạn-đồ-la huyết mạch phả, một thiên; 3, Tạp mạn-đồ-la huyết mạch phả, một thiên”. Hai thiên trước là Thuần, một thiên sau là Tạp. Minh chứng về thuần tạp rất nhiều, ở đây chỉ nêu ra một số như thế thôi.
Nên biết rằng, nghĩa thuần tạp cũng tùy theo pháp mà thay đổi, không nhất định. Do đó, ở đây chỉ căn cứ theo ý của ngài Thiện Đạo mà luận về thuần tạp của hạnh Tịnh độ. Thuần tạp này không hạn cuộc nơi nội điển , mà trong ngoại điển cũng có rất nhiều, vì sợ dài dòng nên không ghi nơi đây. Nhưng trong hạnh vãng sanh, không chỉ ngài Thiện Đạo mới phân làm hai hạnh thuần tạp, mà thiền sư Đạo Xước cũng cho rằng tuy có nhiều hạnh vãng sanh, nhưng gom lại thành hai, đó là Niệm Phật vãng sanh và Vạn hạnh vãng sanh. Còn thiền sư Hoài Cảm thì nói: “Tuy có rất nhiều hạnh vãng sanh, nhưng gom lại thành hai là: Niệm Phật vãng sanh và Chư hạnh vãng sanh”. Sư Huệ Tâm cũng đồng với ý này. Như thế ba vị cùng lập hai hạnh để gồm thâu hết các hạnh vãng sanh, thật rất hợp với yếu chỉ Tịnh độ.
TRÍCH DẪN:
Vãng Sanh Lễ Tán ghi: “Nếu niệm niệm liên tục, lấy chết làm kì hạn, thì mười người tu mười người vãng sanh, trăm người tu trăm người vãng sanh. Vì sao? Vì không có tạp duyên nên được chánh niệm, tương ứng với bản nguyện của Đức Phật, không trái giáo Tịnh độ, thuận theo lời Phật. Nếu bỏ chuyên tu mà theo tạp tu thì trăm người không được một, ngàn người chẳng được năm, ba. Vì sao? Vì tạp duyên loạn động làm mất chánh niệm, không tương ứng với bản nguyện của Phật, trái với giáo Tịnh độ, không thuận theo lời Phật, niệm không liên tục, tâm có gián đoạn, hồi hướng phát nguyện không khẩn thiết và chân thật, các phiền não tham sân đến làm gián đoạn, không có tâm hỗ thẹn để sám hối, không luôn luôn nghĩ đến việc báo Đáp ân Phật. Khởi tâm khinh mạn, tuy tu tập mà luôn chạy theo danh lợi, tâm nhân ngã che mờ, khiến không thể gần gũi bạn lành đồng hạnh đồng tu. Thích gần gũi tạp duyên, làm chướng ngại chính mình và chướng ngại người khác.
Vì sao? Gần đây tôi thường nghe thấy tăng tục khắp nơi giải hạnh không đồng, dẫn đến tu chuyên, tu tạp khác nhau. Nhưng tu chuyên thì mười người, vãng sanh cả mười; còn tu tạp, vì không chí tâm, nên ngàn người tu không được một người về cõi Tịnh. Việc hơn kém của hai hạnh như trên đã trình bày, kính mong tất cả những người tu hành nghiệp Vãng sanh hãy suy nghĩ kĩ. Những người đời nay đã nguyện sanh về cõi Cực Lạc, thì nên trong tất cả mọi thời gian, khi đi đứng, lúc nằm ngồi hãy gắng lòng, khắc kỉ, ngày đêm niệm niệm liên tục chớ phế bỏ, lấy cái chết làm kì hạn. Như thế, đối với thân hầu như có một ít khổ, nhưng niệm trước mạng chung, niệm sau liền sanh về cõi Tịnh, vĩnh viễn hưởng thụ pháp lạc vô vi, cho đến cuối cùng thành Phật mà không trải qua sinh tử. Như thế, không sung sướng lắm sao?”.
LUẬN RẰNG:
Đọc đoạn văn này lại càng phải nên bỏ Tạp tu trở về Chuyên tu. Lẽ nào lại bỏ Chánh hạnh chuyên tu trăm người trăm được, mà chấp chặt Tạp hạnh tạp tu ngàn người hành mà không ai chứng được sao? Người tu tập cần phải suy nghĩ kĩ!
III. Đức A-di-đà không lấy các hạnh khác làm bản nguyện vãng sanh, chỉ lấy Niệm Phật làm bản nguyện vãng sanh
TRÍCH DẪN:
Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Như ta thành Phật mà các chúng sanh trong mười phương một lòng tin thích, muốn sanh về cõi nước của ta, dù chỉ niệm mười niệm liền được vãng sanh. Nếu không, ta không giữ ngôi Chánh giác”.
Quán Niệm Pháp Môn ghi: “Nếu ta thành Phật, các chúng sanh trong mười phương nguyện sanh về cõi nước ta, dù chỉ xưng niệm danh hiệu ta mười tiếng, liền nương nguyện lực của ta mà vãng sanh, nếu không ta không giữ ngôi Chánh giác”.
Vãng Sanh Lễ Tán cũng dẫn đoạn văn phát nguyện trên và bàn thêm rằng: “Đức Phật ấy thành Phật trong đời hiện tại. Nên biết thệ nguyện xưa rất sâu nặng, không hư dối. Nếu chúng sanh xưng niệm nhất định được vãng sanh”.
LUẬN RẰNG:
Mỗi Đức Phật đều có hai nguyện là nguyện chung và nguyện riêng. Nguyện chung chính là bốn thệ nguyện rộng lớn . Nguyện riêng, như Đức Thích-ca có năm trăm nguyện lớn, Đức Dược Sư có mười hai nguyện… Như bốn mươi tám nguyện ở đây, tức là nguyện riêng của Đức A-di-đà.
Hỏi: Đức A-di-đà Như Lai phát những lời nguyện này từ bao giờ và trước Đức Phật nào?
Đáp: Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Phật dạy A-nan: Vào thời quá khứ lâu xa, cách nay vô lượng chẳng thể tính bàn vô ương số kiếp , Đức Phật Định Quang xuất hiện ở thế gian, giáo hóa vô lượng chúng sanh, khiến tất cả đều được vào đạo rồi Ngài vào Niết-bàn. Kế đó lại có Đức Phật Quang Viễn, Phật Xử Thế cho đến Đức Phật thứ năm mươi ba xuất thế rồi vào Niết-bàn. Bấy giờ có Đức Phật hiệu là Thế Tự Tại Vương trụ ở đời. Có một vị vua nghe Phật thuyết pháp, trong lòng vui sướng liền phát tâm Vô thượng chánh chân đạo , từ bỏ ngôi vua, xuất gia làm sa-môn , hiệu là Pháp Tạng, tài cao, trí sáng, siêu việt thế gian. Một hôm Sa-môn này đến trụ xứ của Phật Thế Tự Tại Vương. Đức Phật nói rộng về trời người thiện ác, cõi nước đẹp xấu trong hai trăm mười ức Phật độ. Tất cả đều tương ứng với tâm nguyện của Sa-môn mà hiện ra. Vị Sa-môn nghe Đức Phật nói về cõi nước trang nghiêm thanh tịnh thì cũng liền thấy được tất cả. Do đó, Ngài phát thệ nguyện vô thượng thù thắng, trong tâm vắng lặng, ý không dính mắc, tất cả người thế gian không ai bằng. Trải qua năm kiếp, vị Sa-môn tư duy, giữ lấy hạnh thanh tịnh trong cõi Phật trang nghiêm.
A-nan lại hỏi: Tuổi thọ của Đức Phật ấy bao nhiêu?
Đức Phật Đáp: Tuổi thọ của Đức Phật ấy là bốn mươi hai kiếp.
Bấy giờ Tì-kheo Pháp Tạng giữ lấy hạnh thanh tịnh trong hai trăm mười ức cõi Phật vi diệu”.
Kinh Đại A-đi-đà ghi: “Đức Phật ấy tuyển chọn trời người thiện ác, cõi nước đẹp xấu trong hai trăm mười ức cõi Phật, chọn lấy những nguyện mà tâm ưa thích. Đức Phật Lâu-di-hỗ-la (Phật Thế Tự Tại Vương) lại thuyết kinh, Tất-đàm-ma-ca (Pháp Tạng) liền chuyên nhất tâm mình mà chứng đắc Thiên nhãn, thấy suốt trời người thiện ác, cõi nước đẹp xấu trong hai trăm mười ức cõi Phật, chọn những ước nguyện trong tâm đúc kết thành kinh Nhị Thập Tứ Nguyện”(kinh Bình Đẳng Giác cũng giống như thế).
Tuyển chọn nghĩa là lấy bỏ. Tức là trong hai trăm mười ức cõi Phật, bỏ trời người ác, chọn lấy trời người thiện; bỏ cõi nước xấu, chọn lấy cõi nước tốt đẹp. Nghĩa tuyển chọn trong kinh Đại A-di-đà như thế. Trong kinh Song Quyển cũng có ý nghĩa tuyển chọn, như kinh ấy ghi: “Tì-kheo Pháp Tạng giữ lấy hạnh thanh tịnh trong hai trăm mười ức cõi Phật vi diệu”. Tuyển chọn và giữ lấy cũng đồng một nghĩa. Thế thì xả bỏ hạnh không thanh tịnh mà chọn lấy hạnh thanh tịnh. Ý nghĩa trời người thiện ác, cõi nước đẹp xấu, theo đó cũng biết được.
Nay căn cứ theo bốn mươi tám nguyện, đơn phối hợp (nhất vãng), mỗi mỗi luận về nghĩa tuyển chọn, nhiếp thủ:
1. Nguyện không có ba đường ác , tức là trong hai trăm mười ức cõi Phật mà Tì-kheo Pháp Tạng nhìn thấy, có cõi nước có ba đường ác, có cõi nước không có ba đường ác. Như vậy chọn bỏ cõi nước thô xấu có ba đường ác, chọn lấy cõi nước thiện diệu không có ba đường ác. Cho nên gọi là tuyển chọn.
2. Nguyện không trải qua ba đường ác, tức trong cõi nước của các Đức Phật, tuy có cõi nước không có ba đường ác, nhưng nhân dân cõi ấy sau khi chết lại phải trải qua cõi nước có ba đường ác, hoặc có cõi nước không trải qua ba đường ác. Nay chọn bỏ cõi nước thô xấu chúng sinh sau khi chết, phải trải qua ba đường ác, chọn lấy cõi nước thiện diệu không trải qua ba đường ác. Cho nên gọi là tuyển chọn.
3. Nguyện thân đều có màu vàng ròng, tức trong các cõi nước của Đức Phật, hoặc cõi nước có hai loại trời người thân màu vàng và trắng, hoặc có cõi thuần chúng sanh thân màu vàng ròng. Nay chọn bỏ cõi nước thô xấu, có hai loại thân vàng và trắng, chọn lấy cõi nước thiện diệu có thuần chúng sanh thân màu vàng. Cho nên gọi là tuyển chọn.
4. Nguyện không có thân đẹp xấu, tức trong các cõi nước của Phật, có cõi nước mà trời người trong đó có hình sắc đẹp xấu khác nhau, hoặc có cõi nước mà chúng trời người trong đó chỉ một loại hình sắc, không có đẹp xấu khác nhau. Nay chọn bỏ cõi thô xấu có thân đẹp xấu khác nhau, chọn lấy cõi thiện diệu có thân chúng sanh đồng nhất, không đẹp xấu. Nên gọi là tuyển chọn.
Cho đến thứ 18, nguyện niệm Phật vãng sanh, tức trong cõi nước của Đức Phật kia, hoặc có cõi dùng bố thí làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng trì giới làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng nhẫn nhục làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng tinh tấn làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng thiền định làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng trí huệ (tin Đệ nhất nghĩa…) làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng tâm Bồ-đề làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng việc trì kinh làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng việc trì chú làm hạnh vãng sanh; hoặc có cõi dùng các hạnh xây dựng chùa tháp, tạo tôn tượng, cúng dường thức ăn cho sa-môn cho đến hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự thầy tổ làm hạnh vãng sanh; hoặc có cõi dùng hạnh chuyên xưng niệm danh hiệu Đức Phật cõi ấy làm hạnh vãng sanh. Như thế dùng một hạnh phối hợp với một cõi Phật, cho nên gọi là đơn phối hợp (nhất vãng).
Nếu luận theo phức phối hợp (tái vãng) thì ý nghĩa không nhất định, hoặc trong một cõi Phật dùng nhiều hạnh làm hạnh vãng sanh, hoặc có nhiều cõi Phật lại dùng một hạnh làm hạnh vãng sanh chung. Có rất nhiều hạnh vãng sanh như thế không thể kể hết. Nay chọn bỏ những hạnh bố thí, trì giới cho đến hiếu dưỡng cha mẹ…, mà chọn lấy hạnh chuyên xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, nên gọi là tuyển chọn.
Trên đây chỉ căn cứ theo năm nguyện, sơ lược luận bàn về nghĩa tuyển chọn như thế, thì tất cả các nguyện khác chuẩn theo đó cũng có thể biết được.
Hỏi: Căn cứ các nguyện, thì lí chọn bỏ cõi thô xấu, chọn lấy cõi thiện diệu thật đúng như vậy. Nhưng vì sao nguyện thứ mười tám chọn bỏ tất cả các hạnh, chỉ chọn lấy một hạnh Niệm Phật làm hạnh vãng sanh?
Đáp: Ý Phật thật khó lường, không thể tự ý giải thích. Tuy nhiên, nay thử dùng nghĩa hơn kém và nghĩa dễ khó để luận bàn xem.
- Hơn kém: Niệm Phật là hơn, các hạnh khác thì kém. Vì sao? Vì danh hiệu Phật là nơi trở về của muôn đức. Thế thì Đức Phật A-di-đà có đủ tất cả các công đức nội chứng (tự chứng) như bốn trí , ba thân , mười lực , bốn vô sở úy và tất cả công đức ngoại dụng (hóa tha) như tướng hảo , ánh sáng, thuyết pháp, lợi sanh…Tất cả các công đức nội, ngoại ấy đều thâu vào trong danh hiệu A-di-đà, cho nên công đức của danh hiệu rất tối thắng. Các hạnh khác thì không được như thế, mỗi hạnh chỉ có một phần công đức, vì thế cho nên kém vậy. Ví như nói ngôi nhà, thì trong từ ngôi nhà ấy đã thâu hết tất cả các loại như: kèo, cột, rui, mè, đòn dông…Nhưng kèo, cột, rui, mè thì không thể gồm thâu tất cả những loại khác được. Thế thì công đức của danh hiệu Phật hơn tất cả các công đức khác. Cho nên bỏ kém, chọn hơn làm bản nguyện.
- Dễ khó: Niệm Phật thì dễ tu, các hạnh khác rất khó tu. Cho nên trong Vãng Sanh Lễ Tán ghi: “Hỏi: Vì sao không cho tu quán, mà chỉ khuyên chuyên niệm danh hiệu? Đáp: Đó là do chúng sanh nghiệp chướng sâu nặng, cảnh quán thì vi tế, tâm tâm thì thô phù, thức lại mênh mang, thần thì bay bỗng. Nếu tu quán thật khó thành. Vì thế, bậc Đức Phật xót thương, chỉ khuyên niệm danh hiệu Phật. Hơn nữa, chỉ cần niệm liên tục thì được vãng sanh”.
Vãng Sanh Yếu Tập ghi: “Hỏi: Tất cả các nghiệp thiện đều có lợi ích, mỗi mỗi đều có thể hồi hướng vãng sanh, vì sao chỉ khuyên niệm Phật? Đáp: Khuyên niệm Phật, chẳng phải là không cho thực hành các hạnh lành khác, chỉ vì không kể nam nữ, sang hèn, không phân nằm ngồi đi đứng, không luận thời tiết nóng lạnh, chẳng quản nơi chốn gần xa…, hễ tu thì dễ thành. Cho đến lúc lâm chung nguyện cầu vãng sanh, không pháp nào hiệu quả hơn niệm Phật”.
Thế biết, niệm Phật dễ tu, nên chung cho tất cả các hạng chúng sanh, còn các hạnh khác khó hành, nên không bao trùm các loại. Vậy Đại Thánh muốn khiến chúng sanh bình đẳng vãng sanh, bỏ khó lấy dễ làm bản nguyện. Nếu lấy việc tạo tượng, xây tháp làm bản nguyện, thì những người nghèo hèn, khốn khổ ắt hết hi vọng vãng sanh, nhưng người giàu sang thì ít, kẻ nghèo hèn thì nhiều. Nếu dùng tài cao, trí tuệ làm bản nguyện thì kẻ ngu độn, trí kém tuyệt đường vãng sanh, nhưng kẻ ngu độn thì nhiều, người có trí tuệ lại ít. Nếu lấy nghiệp học rộng hiểu nhiều làm bản nguyện, thì kẻ ít học ít biết hết hi vọng vãng sanh, nhưng người học rộng thì ít, kẻ ít học thì nhiều. Nếu lấy trì giới, trì luật làm bản nguyện thì kẻ phá giới, không giới nhất định hết hi vọng vãng sanh, nhưng người trì giới thì ít, kẻ phá giới không giới thì nhiều. Tất cả các hạnh khác căn cứ theo đây cũng có thể biết được.
Hơn nữa, nếu dùng các hạnh trên làm bản nguyện thì rất ít người được vãng sanh. Thế thì Tì-kheo Pháp Tạng A-di-đà Như Lai khi xưa phát khởi lòng từ bi, vì nhiếp thủ tất cả, nên không dùng các hạnh xây tháp, tạo tượng…làm bản nguyện, chỉ lấy niệm Phật làm bản nguyện. Cho nên, trong bộ Ngũ Hội Pháp Sự Tán , thiền sư Pháp Chiếu có viết: “Đức Phật A-di-đà, trong lúc tu nhân đã lập thệ nguyện: “Người nào nghe danh hiệu ta, niệm danh hiệu ta thì ta đều đến đón, không kể nghèo hèn hay giàu sang, trí thấp hay tài cao, nghe nhiều học rộng, giữ tịnh giới hay phá giới, gốc tội sâu dày. Chỉ cần hồi tâm thường niệm Phật, thì có thể khiến cho ngói vỡ biến thành vàng ròng”.
Hỏi: Tất cả Bồ-tát dù đã lập thệ nguyện, nhưng có vị đã thành tựu, có vị chưa thành tựu, không biết bốn mươi tám nguyện của bồ-tát Pháp Tạng nay đã thành chưa?
Đáp: Tất cả nguyện của bồ-tát Pháp Tạng đã thành tựu. Vì sao? Vì trong cõi Cực Lạc không có ba đường ác, tức đã thành tựu nguyện “Không có ba đường ác”. Làm sao biết được? Vì kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ khi nói về nguyện thành tựu có ghi: “Cũng không có cõi nước có các nạn địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh”. Lại nói trời người cõi kia sau khi mạng chung không trải qua các đường ác, đó chính là thành tựu nguyện “Không trải qua ba đường ác”. Làm sao biết? Vì văn kinh ghi: “Các Bồ-tát kia cho đến lúc thành Phật cũng không trải qua ba đường ác”. Lại nói tất cả trời người trong cõi Cực Lạc đều đầy đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, đó là thành tựu nguyện “Đầy đủ ba mươi hai tướng”. Làm sao biết? Vì văn kinh ghi: “Người sanh vào nước ấy đều đầy đủ ba mươi hai tướng”. Như vậy, từ nguyện thứ nhất “Không có ba đường ác”, cho đến nguyện cuối cùng “Đạt được ba pháp nhẫn” đều đã thành tựu. Há riêng nguyện thứ mười tám “Niệm Phật vãng sanh” không thành tựu sao?
Thế thì người niệm Phật nhất định vãng sanh. Làm sao biết? Vì văn kinh khi nói về nguyện thành tựu, có ghi: “Nếu chúng sanh nghe danh hiệu của Đức Phật A-di-đà, khởi lòng tin thích, vui vẻ, dù chỉ niệm một niệm, rồi chí tâm hồi hướng nguyện sanh về cõi nước của Ngài, nhất định được sanh, chứng Bất thoái chuyển”. Bốn mươi tám nguyện trang nghiêm cõi Tịnh, thì tất cả ao sen, lầu gác báu… đều là do nguyện lực mà thành, vì sao lại chỉ nghi ngờ nguyện Niệm Phật vãng sanh? Lại thêm, cuối mỗi mỗi nguyện còn nói: “Nếu chẳng như thế, ta chẳng giữ ngôi Chánh giác” mà Phật A-di-đà thành Phật đến nay đã mười kiếp. Nguyện thành Phật đã thành tựu, thì biết tất cả các nguyện khác chẳng phải lập suông. Cho nên ngài Thiện Đạo nói: “Đức Phật ấy hiện tại đã thành Phật, nên biết bản thệ nguyện sâu nặng thật không hư dối. Chúng sanh xưng niệm nhất định được vãng sanh”.
Hỏi: Kinh nói là mười niệm, giải thích là mười tiếng. Vậy nghĩa niệm và tiếng như thế nào?
Đáp: Niệm và tiếng chỉ là một. Vì sao? Vì trong phần Hạ phẩm hạ sanh trong kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Tiếng không gián đoạn, đầy đủ mười niệm xưng Nam-mô A-di-đà-Phật. Vì niệm danh hiệu Phật, cho nên trừ được tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp”. Nay căn cứ theo đoạn văn này thì đã rõ, tiếng tức là niệm, niệm tức là tiếng. Thêm nữa, kinh Đại Tập Nguyệt Tạng ghi: “Niệm lớn thấy Phật lớn, niệm nhỏ thấy Phật nhỏ”. Sư Hoài Cảm giải thích rằng: “Niệm lớn tức lớn tiếng niệm Phật, niệm nhỏ tức nhỏ tiếng niệm Phật”. Cho nên biết niệm tức là xướng niệm vậy.
Hỏi: Kinh ghi: “Nãi chí”, các bản giải thích là “hạ chí”, vậy có nghĩa gì?
Đáp: “Nãi chí” và “hạ chí” giống nhau. Kinh nói “nãi chí”, tức là từ nhiều xuống ít, nhiều là niệm trọn một đời, ít là xuống còn (dù chỉ) mười tiếng hoặc một tiếng. Còn giải thích “nãi chí” là “hạ chí”, thì hạ là đối với thượng. Hạ tức là dưới xuống còn (dù chỉ) mười niệm hay một niệm. Thượng tức là trên thì trọn một đời. Văn kinh luận đề cập đến thượng và hạ rất nhiều. Như trong nguyện “Túc mệnh thông” ghi: “Ví như ta thành Phật mà trời người trong cõi nước của ta không biết được túc mệnh , dù chỉ không biết các việc trong trăm nghìn na-do-tha kiếp, ta cũng không giữ ngôi Chánh giác”. Trong văn các nguyện về năm thần thông, ánh sáng, thọ mệnh đều có chữ Hạ chí, đó là ý nghĩa từ nhiều đến ít, dùng hạ đối với thượng vậy. Chữ Nãi chí trong nguyện này tức là Hạ chí. Cho nên ngài Thiện Đạo giải thích là Hạ chí, ý nghĩa cũng không trái. Nhưng ý các Sư và Thiện Đạo khác nhau. Các Sư giải thích hạn cuộc thành nguyện Thập niệm vãng sanh, ngài Thiện Đạo tổng gom, thành nguyện Niệm Phật vãng sanh. Các Sư phân biệt như thế, ý nghĩa không trọn vẹn. Vì sao? Vì trên thì không nói một đời, dưới thì không nói một niệm. Ngài Thiện Đạo lập nguyện Niệm Phật vãng sanh thì ý nghĩa trọn vẹn, vì trên thì nói đến một đời, dưới cũng giữ lấy một niệm.
IV. Ba hạng người niệm Phật vãng sanh
TRÍCH DẪN:
Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Phật dạy A-nan: Các trời và người trong thế giới ở mười phương chí tâm tin thích, nguyện sanh về nước Cực Lạc, gồm có ba hạng:
Bậc thượng, là những người xuất gia làm Sa-môn, phát tâm bồ-đề, một lòng chuyên niệm danh hiệu Đức Phật Vô Lượng Thọ, tu tập các công đức, nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc. Những người này lúc sắp chết, Đức Phật Vô Lượng Thọ và các Thánh hiện đến trước mặt, họ liền theo Phật sanh về nước của Ngài, tự nhiên hóa sanh trong hoa bảy báu, trụ nơi giai vị Bất thoái chuyển, được trí tuệ sáng tỏ, sức thần thông tự tại. Vì thế, này A-nan! Nếu có chúng sanh muốn ngay trong đời này thấy được Đức Phật Vô Lượng Thọ thì nên phát tâm Vô thượng bồ-đề, tu các công đức, nguyện sanh về nước Cực Lạc.
Đức Phật lại bảo A-nan: Bậc trung, là những trời người trong các thế giới ở mười phương, một lòng nguyện sanh về nước kia, dù không thực hành hạnh sa-môn, tu tập các công đức, nhưng phát tâm Vô thượng bồ-đề, chí tâm niệm danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ, hồi hướng tất cả những công đức có được từ việc thực hành các điều thiện như giữ gìn trai giới, xây dựng chùa tháp, tạo lập tôn tượng, cúng dường sa-môn, treo phan đốt đèn, thắp hương rải hoa nguyện sanh về cõi ấy. Người này lúc sắp chết, Đức Phật Vô Lượng Thọ hiện hóa thân có đầy đủ ánh sáng, tướng hảo như Phật thật cùng với đại chúng hiện đến trước mặt. Người này liền theo Hóa Phật sanh về nước ấy, trụ giai vị Bất thoái chuyển, công đức và trí tuệ chỉ sau bậc thượng.
Đức Phật lại bảo A-nan: Bậc hạ, là những trời người trong các thế giới ở mười phương chí tâm muốn sanh vào nước kia, giả sử họ không thể tạo các công đức, nhưng phát tâm Vô thượng bồ-đề, một lòng niệm danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ, dù chỉ mười niệm hay chỉ một niệm, với tâm chí thành nguyện sanh về nước ấy, nghe pháp sâu xa vui vẻ tin thích, không nghi ngờ. Người này lúc sắp chết, mộng thấy Đức Phật kia, cũng được vãng sanh, công đức trí huệ kém hơn bậc hạ.
LUẬN RẰNG:
Hỏi: Bậc thượng ngoài việc niệm Phật, còn có các hạnh xuất gia, lìa dục. Bậc trung còn có các hạnh xây dựng chùa tháp, tạo lập tôn tượng…Bậc hạ cũng có các hạnh như phát tâm bồ-đề…Vì sao chỉ nói Niệm Phật vãng sanh?
Đáp: Trong bộ Quán Niệm Pháp Môn của ngài Thiện Đạo ghi: “Phần đầu trong quyển hạ của kinh này ghi: Phật dạy căn tánh của chúng sanh không đồng, có thể chia làm ba bậc thượng, trung, hạ. Mỗi mỗi căn tánh, Đức Phật đều khuyên chuyên niệm danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ. Những người này lúc sắp chết, Đức Phật và các Thánh đến rước, liền được vãng sanh”. Căn cứ theo lời giải thích này, thì ba bậc đều có nói Niệm Phật vãng sanh.
Hỏi: Lời giải thích này chưa đáp ứng được câu gạn hỏi trên. Hỏi rằng vì sao không nói đến các hạnh khác mà chỉ nói đến Niệm Phật?
Đáp: Việc này có ba ý: Một là bỏ các hạnh, trở về hạnh Niệm Phật, nên mới nói đến các hạnh. Hai là trợ giúp để thành tựu hạnh Niệm Phật, nên mới nói đến các hạnh. Ba là căn cứ hạnh Niệm Phật và các hạnh, mỗi mỗi lập ba phẩm, nên phải nói đến các hạnh.
- Vì muốn bỏ các hạnh, trở về hạnh Niệm Phật: Căn cứ theo Quán Kinh Sớ của Thiện Đạo, từ trước đến đây tuy nói về lợi ích của hai môn Định-Tán, nhưng căn cứ theo ý bản nguyện Phật, khuyên chúng sanh một bề chuyên niệm Phật A-di-đà để giải thích, thì bậc thượng tuy nói đến các hạnh phát tâm Bồ-đề…, nhưng căn cứ theo ý bản nguyện, chúng sanh chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà, thì trong bản nguyện không có các hạnh khác. Ba bậc đều căn cứ theo bản nguyện, cho nên nói: “Nhất hướng (một bề) chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ”. Nói Nhất hướng là đối lại với nhị hướng, tam hướng…Ví như ở Ấn Độ xưa có ba loại chùa: Nhất hướng Đại thừa tự, chỉ tu tập theo Đại thừa; Nhất hướng Tiểu thừa tự, chỉ tu tập theo Tiểu thừa; Đại Tiểu kiêm hành tự, tu học cả Đại và Tiểu. Trong hai loại chùa Đại và Tiểu đều có chữ Nhất hướng, còn trong Kiêm hành thì không. Nhất hướng trong đây cũng như vậy, tức là một bề chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Nếu ngoài niệm Phật, còn tu thêm hạnh nào khác thì không gọi là nhất hướng. Căn cứ theo đó, nếu đã nói nhất hướng thì không gồm tu các hạnh khác vậy. Trước nói các hạnh, sau nói một bề chuyên niệm, thì biết rõ là phế các hạnh, chỉ chọn niệm Phật mà thôi. Nếu không như thế thì lời nhất hướng thật khó thông.
- Trợ giúp để thành tựu hạnh Niệm Phật: Có hai ý. Một, dùng căn lành đồng loại trợ giúp; hai, dùng căn lành khác loại để trợ giúp.
+ Dùng căn lành đồng loại: Trong Quán Kinh Sớ của Thiện Đạo có nêu ra năm hạnh để trợ giúp thành tựu một hạnh Niệm Phật, như đã nói trong phần Chánh hạnh-Tạp hạnh.
+ Dùng căn lành khác loại: Trước căn cứ theo bậc thượng để nói về trợ hạnh. Một bề chuyên niệm danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ là chánh hạnh, cũng là hạnh được trợ giúp. Bỏ gia đình, lìa dục làm sa-môn, phát tâm Bồ-đề là trợ hạnh, cũng là năng lực trợ giúp. Sự nghiệp vãng sanh lấy niệm Phật làm gốc, cho nên chuyên tâm niệm Phật. Chuyên tâm niệm Phật thì thực hành mãi mãi, không lui sụt, không bỏ phế; còn xuất gia, phát tâm bồ-đề chỉ một lần đầu mà thôi, cho nên không ngăn ngại niệm Phật. Trong bậc trung có các trợ hạnh xây tháp, tạo tượng, treo tràng phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương. Tức nơi chốn, pháp khí và các phẩm vật cúng dường cho việc niệm Phật.Về ý nghĩa của các trợ hạnh này được ghi đầy đủ trong Vãng Sanh Yếu Tập. Bậc hạ cũng có phát tâm, cũng có niệm Phật. Ý nghĩa chánh trợ niệm Phật căn cứ theo đoạn trước cũng có thể biết được.
+ Căn cứ theo hai môn: Niệm Phật và các hạnh, mỗi mỗi lập ba phẩm: Trước theo Niệm Phật, vì trong ba bậc đều nói: Một bề chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ. Nên phải căn cứ theo môn niệm Phật mà lập ba phẩm. Phần Niệm Phật chứng cứ môn trong Vãng Sanh Yếu Tập ghi: “Kinh Song Quyển nói hành nghiệp của ba bậc tuy sâu cạn khác nhau, nhưng đều có ghi: Một bề chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ” (sư Hoài Cảm cũng nói đồng với ý này). Kế đến theo các hạnh, vì trong ba bậc này đều có các hạnh phát tâm bồ-đề… Cho nên phải căn cứ theo các hạnh mà lập ba bậc. Phần Chư hạnh vãng sanh môn trong Vãng Sanh Yếu Tập ghi: “Kinh Song Quyển nói ba bậc cũng không ra ngoài các hạnh này”.
Ba nghĩa trên tuy khác nhau, nhưng đều vì môn Nhất hướng niệm Phật. Thứ nhất là nghĩa lấy và bỏ; thứ hai là nghĩa chánh và trợ, tức là vì hỗ trợ cho chánh nghiệp là Niệm Phật mà nói đến trợ nghiệp là các hạnh; thứ ba là nghĩa chánh và phụ, tuy nói cả hai, nhưng lấy niệm Phật làm chánh, các hạnh làm phụ. Nhưng ba nghĩa này cũng rất khó hiểu, xin người học tùy tâm, chọn lựa lấy bỏ. Nhưng theo ý của ngài Thiện Đạo thì nghĩa thứ nhất là cốt yếu.
Hỏi: Hạnh nghiệp vãng sanh của ba bậc đều nói niệm Phật, đó là lẽ đương nhiên, nhưng chín phẩm trong Quán Kinh và ba bậc trong kinh Vô Lượng Thọ vốn là khai hợp khác nhau. Nếu thế, vì sao ba bậc trong kinh Vô Lượng Thọ đều nói niệm Phật, còn trong chín phẩm của Quán Kinh thì hai phẩm thượng và trung không nói niệm Phật, đến phẩm hạ mới nói niệm Phật?
Đáp: Câu này có hai ý: Một, lời hỏi có nêu: chín phẩm trong Quán Kinh và ba bậc trong kinh Vô Lượng Thọ là khai hợp khác nhau. Như thế thì biết trong chín phẩm đều có niệm Phật. Vì sao biết? Vì trong ba bậc đều có niệm Phật, lẽ nào trong chín phẩm không có niệm Phật sao? Cho nên Vãng Sanh Yếu Tập ghi: “Trong chín phẩm, hạnh Niệm Phật thuộc về phẩm nào? Đáp: ‘Nếu như thuyết mà hành, lẽ ra thuộc về Thượng thượng, nhưng tùy hơn kém (có thể do căn cơ, cũng có thể do hành trì) mà phân làm chín phẩm. Nhưng hành nghiệp chín phẩm mà kinh nói, chỉ mới nêu một lẽ, thật ra là vô lượng’”. Cho nên biết chín phẩm cũng có hạnh Niệm Phật. Hai, ý của Quán Kinh, đầu tiên nói rộng về hạnh Định-Tán, để thích hợp với tất cả khả năng trình độ, sau phế bỏ Định thiện-Tán thiện để trở về niệm Phật. Đó chính là ý trong câu kinh: “Ông hãy thọ trì thật kĩ lời này…” trong Quán Kinh. Ý nghĩa đoạn văn này sẽ trình bày ở phần sau. Vì thế nên biết, hành nghiệp chín phẩm vãng sanh cốt ở niệm Phật.
V. Niệm Phật được lợi ích
TRÍCH DẪN:
Kinh Vô Lượng Thọ, quyển hạ ghi: “Đức Phật bảo Di-lặc : Nếu người nào nghe danh hiệu của Đức Phật kia mà khởi tâm vui mừng, dù chỉ một niệm xưng danh, nên biết người ấy được lợi ích lớn, đầy đủ công đức vô thượng.
Vãng Sanh Lễ Tán của Thiện Đạo ghi: “Nếu người được nghe danh hiệu của Đức Phật A-di-đà, khởi tâm hoan hỉ, dù chỉ một niệm xưng danh, người ấy sẽ được vãng sanh”.
LUẬN RẰNG:
Hỏi: Trong đoạn văn nói về ba bậc vãng sanh, ngoài công đức niệm Phật, còn có các công đức khác như phát tâm Bồ-đề… Vì sao không khen ngợi các công đức ấy, chỉ khen ngợi công đức niệm Phật?
Đáp: Ý của Đức Phật khó lường, nhất định Ngài có chủ ý sâu xa. Nhưng nay hãy căn cứ theo ý của đại sư Thiện Đạo mà trình bày. Ý của Đức Phật tuy chỉ muốn nói thẳng về hạnh Niệm Phật, nhưng nhất thời tùy căn cơ mà thuyết thêm các hạnh, chia ra ba bậc sâu cạn khác nhau. Nay sư cũng đã bỏ mà không khen ngợi, gác qua mà không luận đến, chỉ chọn một hạnh Niệm Phật để khen, thì suy nghĩ cũng có thể phân biệt được tại sao. Nếu căn cứ theo hạnh Niệm Phật để phân biệt ba bậc thì có hai ý: Một, tùy theo quán và niệm sâu cạn mà phân thành ba bậc. Hai, theo niệm Phật nhiều ít mà phân ba bậc. Theo quán niệm sâu cạn thì như trên đã dẫn, chính là nói: “Nếu như thuyết mà hành trì, đúng ra thuộc phẩm Thượng thượng”. Về niệm Phật nhiều ít, trong văn kinh nói bậc hạ có nêu số lượng: từ mười niệm xuống chỉ còn một niệm… Hai bậc thượng và trung, căn cứ theo đây mà số niệm tăng dần. Quán Niệm Pháp Môn ghi: “Một ngày niệm một vạn biến danh hiệu Phật, nhưng cũng phải cần theo thời khóa lễ lạy, khen ngợi các việc trang nghiêm của cõi Tịnh. Lại cần phải tăng tiến niệm ba vạn, sáu vạn, mười vạn, nhất định Thượng phẩm thượng sanh”. Nên biết niệm ba vạn biến trở lên là hạnh nghiệp Thượng phẩm thượng sanh; dưới ba vạn biến là hành nghiệp Thượng phẩm trung sanh trở xuống. Như thế đã rõ tùy theo số niệm nhiều hay ít mà phân biệt phẩm vị. Một niệm ở đây chính là một niệm nói trong phần “Niệm Phật nguyện thành tựu”, cũng là một niệm nói trong bậc hạ ở trên. Trong văn “Nguyện thành tựu” tuy ghi: “Chưa nói công đức lợi ích lớn của một niệm”; văn trong phần bậc hạ tuy nói: “Cũng không nói công đức lợi ích lớn của một niệm”, nhưng đến đây lại nói một niệm được lợi ích lớn và khen là vô thượng. Cho nên biết đó là chỉ cho một niệm ở trên. Lợi ích lớn là đối với lợi ích nhỏ, cho các hạnh như phát tâm Bồ-đề… là lợi ích nhỏ, “dù chỉ một niệm” là lợi ích lớn. Còn công đức vô thượng là đối với công đức hữu thượng vậy. Cho công đức niệm Phật là vô thượng, thì một niệm là một vô thượng, mười niệm là mười vô thượng, trăm niệm là trăm vô thượng, ngàn niệm là ngàn vô thượng. Cho đến lần lượt tăng tiến từ ít đến nhiều, đến hằng sa niệm Phật, vô thượng công đức cũng hằng sa. Vậy những người nguyện cầu vãng sanh, sao lại bỏ niệm Phật có lợi ích lớn vô thượng mà lại cưỡng tu các hạnh có lợi ích hữu thượng?
VI. Sau một vạn năm thời Mạt pháp các hạnh đều không còn, chỉ giữ lại môn Niệm Phật
TRÍCH DẪN:
Kinh Vô Lượng Thọ, quyển hạ ghi: “Trong đời tương lai kinh đạo diệt hết, ta rủ lòng từ bi thương xót chúng sanh, chỉ giữ lại kinh này trụ tại thế gian thêm một trăm năm. Bấy giờ, nếu có chúng sanh nào gặp được kinh này, tùy ý nguyện vãng sanh thì đều được độ”.
LUẬN RẰNG:
Hỏi: Trong kinh chỉ nói giữ lại kinh này một trăm năm, chứ đâu nói giữ môn Niệm Phật một trăm năm. Vì sao ở đây lại nói là giữ môn Niệm Phật?
Đáp: Toàn bộ nội dung kinh này đều nói đến niệm Phật, như đã trình bày ở trên, ở đây không cần phải nêu ra. Các ngài Thiện Đạo, Hoài Cảm, Huệ Tâm… đều nói đồng với ý này. Thế thì kinh này trụ thế, tức là môn Niệm Phật trụ thế vậy. Vì sao? Vì kinh này tuy nói đến phát tâm Bồ-đề, nhưng chưa nói hành tướng của tâm ấy; tuy nói đến trì giới, nhưng chưa nói hành tướng của trì giới. Về hành tướng của tâm Bồ-đề, thì trong kinh Bồ-đề Tâm trình bày rất đầy đủ. Kinh ấy, trước nói diệt các hành của tâm Bồ-đề, vậy nhờ vào đâu để tu? Còn về hành tướng của trì giới thì được nói rõ trong giới luật Đại Tiểu thừa. Giới luật ấy, trước diệt các hành trì giới, vậy nhờ vào đâu để tu? Các hạnh khác căn cứ theo đây cũng có thể biết được. Cho nên trong bộ Vãng Sanh Lễ Tán, ngài Thiện Đạo giải thích đoạn văn này như sau:
“Sau một vạn năm, Tam bảo diệt
Chỉ còn kinh này trụ trăm năm
Bấy giờ người nghe, xưng một niệm
Ắt được sanh về cõi nước kia”.
Lại nêu ra bốn ý để giải thích đoạn văn này: Một, thời gian trụ và diệt trước sau của Thánh đạo môn và Tịnh độ môn. Hai, thời gian trụ và diệt trước sau của giáo Thập phương tịnh độ và giáo Tây phương tịnh độ. Ba, thời gian trụ và diệt trước sau của Đâu-suất và Tây phương. Bốn, thời gian trụ và diệt trước sau của môn Niệm Phật và các hạnh.
+ Thời gian trụ và diệt của Thánh đạo và Tịnh độ: Các kinh của Thánh đạo môn diệt trước, cho nên nói: kinh đạo diệt hết. Chỉ lưu giữ kinh này của Tịnh độ môn, cho nên nói: trụ một trăm năm. Nên biết cơ duyên của chúng sanh đối với Thánh đạo môn rất cạn cợt, cơ duyên của chúng sanh đối với Tịnh độ môn rất sâu dày.
+ Thời gian trụ và diệt của giáo Thập phương tịnh độ và Tây phương tịnh độ: Giáo pháp dạy sanh về các cõi Tịnh trong mười phương diệt trước, cho nên nói: kinh đạo diệt hết. Chỉ giữ lại kinh này là giáo pháp vãng sanh Tây phương tịnh độ, cho nên nói: trụ một trăm năm. Nên biết, cơ duyên của chúng sanh đối với giáo vãng sanh Tịnh độ mười phương rất cạn cợt, cơ duyên chúng sanh đối với giáo vãng sanh Tịnh độ tây phương rất sâu dày.
+ Thời gian trụ và diệt của giáo vãng sanh Đâu-suất và giáo vãng sanh Tịnh độ: Các giáo dạy sanh về cõi Đâu-suất diệt trước, cho nên nói: kinh đạo diệt hết. Chỉ lưu lại kinh dạy vãng sanh Tây phương tịnh độ, cho nên nói: trụ một trăm năm. Nên biết, cõi Đâu-suất tuy gần, nhưng duyên cạn mỏng, cảnh Tịnh tuy xa nhưng duyên sâu dày.
+ Thời gian trụ và diệt của hạnh tu các giáo và Niệm Phật: Các giáo dạy tu các hạnh vãng sanh diệt trước, nên nói: kinh đạo diệt hết. Chỉ giữ kinh dạy về niệm Phật, cho nên nói: trụ một trăm năm. Nên biết cơ duyên của chúng sanh đối với giáo dạy tu các hạnh vãng sanh rất cạn cợt, còn đối với giáo dạy niệm Phật rất sâu dày. Hơn nữa, giáo dạy tu các hạnh vãng sanh ít có duyên với chúng sanh, còn giáo niệm Phật thì có duyên rất lớn đối với đời. Giáo dạy các hạnh vãng sanh chỉ hạn cuộc trong một vạn năm thời mạt pháp, còn giáo dạy niệm Phật vãng sanh nhuần thấm đến một trăm năm sau khi giáo pháp diệt tận.
Hỏi: Đã nói: “Ta vì lòng từ bi thương xót chúng sanh, nên chỉ lưu giữ kinh này trụ ở đời thêm một trăm năm”. Nếu thế, Đức Thế Tôn vì lòng từ bi mà giữ lại kinh giáo, thì sao không giữ các kinh giáo khác lại chỉ giữ kinh này?
Đáp: Dẫu có lưu giữ riêng bất cứ kinh nào, thì cũng không ngại, nhưng nay Đức Phật chỉ giữ lại kinh này là có thâm ý. Theo hòa-thượng Thiện Đạo thì kinh này nói về bản nguyện niệm Phật vãng sanh của Đức A-di-đà, cho nên Đức Thích-ca từ bi, vì giữ môn Niệm Phật mà phải đặc biệt giữ lại kinh này. Các kinh khác chưa nói đến bản nguyện niệm Phật vãng sanh của A-di-đà Như lai. Cho nên Đức Thích-ca từ bi không giữ lại.
Tuy tất cả bốn mươi tám nguyện đều là bản nguyện, nhưng đặc biệt dùng niệm Phật làm phép tắc vãng sanh. Cho nên ngài Thiện Đạo giải thích rằng:
Hoằng thệ tuy nhiều, bốn tám môn,
Nhưng chỉ niệm Phật là tối tôn.
Ai luôn niệm Ngài, Ngài nhớ nghĩ,
Chuyên tâm tưởng Phật, Phật biết lòng.
Cho nên biết, trong bốn mươi tám nguyện, đã lấy nguyện Niệm Phật vãng sanh làm vua trong các bản nguyện, vì thế Đức Thích-ca từ bi, đặc biệt lưu kinh này trụ thế một trăm năm. Như trong kinh Quán Vô Lượng Thọ không phó chúc các hạnh Định-Tán, mà chỉ phó chúc hạnh Niệm Phật. Đó là vì thuận với nguyện của Đức Phật kia vậy.
Hỏi: Lưu lại kinh này trong khoảng một trăm năm, lẽ đương nhiên, vì hạnh Niệm Phật thích hợp thời gian và trình độ của chúng sanh thời ấy. Nhưng không biết có thích hợp trình độ chúng sanh thời chánh, tượng, mạt hay không?
Đáp: Bao gồm cả các căn cơ ba thời ấy. Đó là nêu lợi ích mai sau để khuyên dạy người hiện đời, người học cần phải biết.
VII. Ánh sáng của Đức Phật A-di-đà không chiếu đến các hành giả khác, chỉ nhiếp thọ hành giả niệm Phật.
TRÍCH DẪN:
Kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Đức Phật Vô Lượng Thọ có tám vạn bốn ngàn tướng, mỗi một tướng có tám vạn bốn ngàn vẻ đẹp, mỗi một vẻ đẹp có tám vạn bốn ngàn tia sáng, mỗi một tia sáng chiếu khắp các thế giới ở mười phương, nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật, không bao giờ lìa bỏ”.
Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ ghi: “Từ câu ‘Đức Phật Vô Lượng Thọ’ đến câu ‘không bao giờ lìa bỏ’ chính là nói về pháp quán ánh sáng của thân để làm lợi ích cho những người có duyên. Đoạn này gồm năm phần: Một, số lượng tướng. Hai, số lượng của vẻ đẹp. Ba, số lượng tia sáng. Bốn, khoảng cách ánh sáng chiếu soi. Năm, nơi ánh sáng chiếu đến, tất cả đều được nhiếp thọ.
Hỏi: Tu tập đủ các hạnh, hồi hướng thì đều được vãng sanh. Vì sao ánh sáng của Phật chiếu soi khắp mà chỉ nhiếp thọ những người niệm Phật?
Đáp: Câu này có ba ý: Một, duyên thân thiết. Tức chúng sanh khởi hạnh tu tập, miệng thường tụng danh hiệu Phật, Phật liền nghe; thân thường lễ Phật, Phật liền thấy; tâm thường niệm Phật, Phật liền biết. Chúng sanh nhớ nghĩ đến Phật, Phật cũng nhớ nghĩ đến chúng sanh. Ba nghiệp của chúng sanh và Phật không lìa nhau, cho nên gọi là duyên thân thiết. Hai, duyên gần gũi, chúng sanh nguyện thấy Phật, Phật liền hiện đến trước mặt, cho nên gọi là duyên gần gũi. Ba, duyên tăng thượng, chúng sanh niệm danh hiệu Phật thì diệt trừ được tội trong nhiều kiếp. Lúc sắp chết, Đức Phật và các vị Thánh cùng đến đón tiếp, các tà nghiệp trói buộc không thể ngăn trở, cho nên gọi là duyên tăng thượng. Các hạnh khác tuy gọi là thiện, nhưng hoàn toàn không thể so sánh với niệm Phật. Cho nên trong các kinh, nhiều chỗ khen ngợi công năng của niệm Phật. Như bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ chỉ nói chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà thì được vãng sanh. Kinh A-di-đà ghi: “Từ một ngày cho đến bảy ngày, chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà thì được vãng sanh”. Lại có rất nhiều Đức Phật trong mười phương xác chứng cho sự chân thật, không dối ấy. Còn trong phần Định-tán của kinh này thì chỉ nêu chuyên niệm danh hiệu sẽ được vãng sanh. Những minh chứng như thế rất nhiều.
Quán Niệm Pháp Môn ghi: “Các tia sáng nơi thân của Phật chiếu cùng khắp các thế giới trong mười phương”. Nhưng chỉ có những chúng sanh niệm Phật A-di-đà thì mới được ánh sáng từ tâm Phật chiếu soi và nhiếp hộ, không xa lìa. Hoàn toàn không chiếu và nhiếp theo những hành giả tu tập hạnh.
LUẬN RẰNG:
Hỏi: Nói ánh sáng của Phật chỉ chiếu đến người niệm Phật, không chiếu đến những người tu các hạnh khác, là có ý gì?
Đáp: Câu này gồm hai ý: Một, tức ba nghĩa của duyên thân thiết như đã trình bày ở đoạn trên. Hai, nghĩa bản nguyện, tức các hạnh khác không phải là bản nguyện, cho nên không chiếu soi, nhiếp thọ, còn hạnh Niệm Phật là bản nguyện nên chiếu soi nhiếp thọ. Trong Lục Thời Lễ Tán của ngài Thiện Đạo có ghi:
Thân Di-đà như kim sơn vương
Ánh sáng tướng hảo chiếu mười phương
Chỉ người niệm Phật hay nhiếp thọ
Phải hay bản nguyện, sức không lường
Lại dẫn văn: “Các hạnh khác tuy gọi là thiện, nhưng hoàn toàn không thể sánh với niệm Phật”. Đó là so sánh với các hạnh trong môn Tịnh độ mà thôi. Tức hạnh Niệm Phật là diệu hạnh được chọn lấy từ hai trăm mười ức cõi nước, các hạnh là những hạnh thô đã loại bỏ từ hai trăm mười ức cõi nước. Cho nên nói hoàn toàn không thể so sánh. Hơn nữa Niệm Phật là bản nguyện, các hạnh khác không phải bản nguyện, cho nên hoàn toàn không thể so sánh.
VIII. Người niệm Phật nhất định phải đầy đủ ba tâm
TRÍCH DẪN:
Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Nếu chúng sanh nguyện sanh về nước kia thì nên phát khởi ba tâm là tâm Chí thành, tâm Tin sâu, tâm Hồi hướng phát nguyện. Hễ đầy đủ ba tâm này thì nhất định được sanh về nước kia”.
Quán Vô Lượng Kinh Sớ ghi: “Tâm Chí thành, trong đó, chí là chân, thành là thật. Ý muốn nói giải hạnh của ba nghiệp thân, miệng, ý nhất định phải được xuất phát từ tâm chân thật. Không được bên ngoài hiện tướng hiền thiện, tinh tấn, bên trong giả dối không thật, đầy dẫy tham sân, tà vạy, gian trá, tánh ác khó trừ, giống như loài rắn rết. Tuy khởi tu ba nghiệp, nhưng đều gọi là tạp độc, cũng gọi là hạnh hư giả, không gọi là chân thật.
Nếu tạo tác như thế mà tâm khởi hạnh tu tập, dẫu cho thân tâm siêng năng lao khổ, ngày đêm cấp thiết hành trì như cứu lửa cháy đầu, thì cũng đều gọi là thiện xen lẫn độc. Nếu muốn hồi hướng hạnh tạp độc này cầu sanh về cõi Tịnh của Đức Phật kia, thật không thể được. Vì sao? Chính là do Đức Phật A-di-đà khi còn là Bồ-tát, dù chỉ trong một niệm, một sát-na , ba nghiệp tu tập đều từ tâm chân thật. Tất cả những hành vi, những mong cầu cũng đều chân thật. Chân thật có hai loại là chân thật tự lợi và chân thật lợi tha. Chân thật tự lợi lại có hai: Một, trong tâm chân thật ngăn chặn, xa lìa cõi uế và các pháp ác; đi, đứng, ngồi, nằm đều quán tưởng ta đồng với các Bồ-tát để ngăn chặn và xa lìa các pháp ác. Hai, từ tâm chân thật siêng năng tu tập các pháp thiện của phàm thánh, của mình và người. Từ tâm chân thật, miệng khen ngợi Đức Phật A-di-đà và y báo, chánh báo cõi kia. Từ tâm chân thật, miệng chê bai các việc khổ đau, xấu ác của y báo, chánh báo trong ba cõi, sáu đường, đồng thời khen ngợi những việc thiện mà ba nghiệp của chúng sanh đã tạo. Nếu nghiệp bất thiện thì cẩn thận mà xa lánh, không nên vui thuận theo. Lại từ tâm chân thật, thân hành thiện, chắp tay lễ kính, dâng cúng tứ sự lên Đức Phật A-di-đà và y báo chánh báo cõi kia. Từ tâm chân thật, thân nghiệp khinh chê, nhàm lìa y báo, chánh báo của mình và người trong ba cõi sanh tử này. Từ tâm chân thật, ý nghiệp suy nghĩ, quán tưởng, nhớ nghĩ Đức Phật A-di-đà và y báo chánh báo cõi kia như hiện trước mặt. Từ tâm chân thật, ý nghiệp khinh chê, nhàm lìa y báo, chánh báo của mình và người trong ba cõi sanh tử này. Ba nghiệp bất thiện, nên xa lìa từ tâm chân thật; ba nghiệp thiện cũng phải tạo từ tâm chân thật. Không phân biệt trong tâm hay ngoài thân, tạo thiện hay lìa bất thiện, nhất định phải chân thật, cho nên gọi là tâm Chí thành.
Tâm Tin sâu: có hai nghĩa: Nhất định tin sâu thân ta hiện nay là phàm phu sanh tử gây tạo nhiều tội lỗi, từ vô số kiếp đến nay chìm đắm, lưu chuyển không có cơ hội thoát ra; nhất định tin sâu bốn mươi tám nguyện của Đức Phật A-di-đà nhiếp thọ chúng sanh, không nghi ngờ, không lo nghĩ; nương nguyện lực ấy nhất định được vãng sanh. Nhất định tin sâu Đức Thích-ca nói ba phước, chín phẩm, định thiện, tán thiện, xác chứng và khen ngợi y báo, chánh báo cõi kia trong kinh Quán Vô Lượng Thọ là để cho người ưa thích. Nhất định tin sâu kinh A-di-đà nói vô số các Đức Phật trong mười phương khuyên tất cả phàm phu niệm Phật nhất định vãng sanh. Tin sâu, tức kính nguyện các hành giả chỉ một lòng tin lời Phật, chẳng tiếc thân mạng, quyết định theo lời dạy tu hành; Phật bảo bỏ thì ta bỏ, Phật bảo làm thì ta làm, Phật bảo đi thì ta đi… Đó gọi là tùy thuận lời Phật, tùy thuận ý Phật, tùy thuận nguyện Phật, cũng gọi là đệ tử chân thật của Phật.
Tất cả người tu hành chỉ nên nương theo kinh này (Quán Kinh), tin sâu mà thực hành, nhất định Phật không dối gạt chúng sanh. Vì sao? Vì Phật là bậc có lòng đại bi tròn đủ, nói lời chân thật. Ngoài Phật ra, tất cả các bậc phàm thánh khác, trí tuệ chưa viên mãn, còn đang ở giai vị tu học, chưa dứt trừ hai chướng là chánh sử và tập khí , quả nguyện chưa thành, dẫu suy lường lời Phật, nhưng chưa thể quyết định; tuy có bình phẩm, nhưng cần phải có Phật xác chứng mới quyết định được. Nếu hợp ý Phật, mới ấn khả “như thế, như thế”. Nếu chẳng hợp ý Phật, thì nói “lời của các ông, ý nghĩa chẳng phải như thế”, chẳng ấn khả. Như vậy tức đồng với lời vô kí, vô lợi, vô ích. Phật ấn khả, tức tùy thuận chánh giáo của Phật. Nếu là lời của Phật, tức chánh giáo, chánh nghĩa, chánh hạnh, chánh giải, chánh nghiệp, chánh trí. Dù ít, dù nhiều, không luận bồ-tát, trời người… thuyết, đều phải định đúng sai. Nếu là lời Phật nói thì đó là giáo liễu nghĩa , nếu là bồ-tát… nói thì đều gọi là giáo bất liễu nghĩa. Cho nên hôm nay kính khuyên những người có duyên vãng sanh, chỉ nên tin sâu lời Phật, nương theo đó chuyên tâm hành trì, không nên tin dùng giáo không tương ưng do Bồ-tát… nói để rồi chướng ngại, ôm mối nghi ngờ, tự mê lầm, mất đi lợi ích lớn vãng sanh.
Tâm tin sâu, tức quyết định kiến lập tự tâm vững chắc, thuận với chánh giáo của Phật, vĩnh viễn trừ bỏ những nghi lầm, không bị những biệt giải, biệt hành, dị học, dị kiến, dị chấp làm xao động hay lui sụt.
Hỏi: Người đời trí huệ nông cạn, phiền não sâu dày, nếu gặp người có giải hạnh bất đồng, khéo dẫn kinh luận chứng minh rằng “tất cả hàng phàm phu nhiều tội chướng không thể vãng sanh”, gây trở ngại, thì phải làm thế nào đối trị, để thành tựu tín tâm, quyết định tiến thẳng, không sanh tâm sợ hãi, thoái lui?
Đáp: Nếu có người dẫn kinh luận, chứng minh là không thể vãng sanh, thì nên Đáp rằng: “Tuy nhân giả dùng kinh luận minh chứng cho việc không thể vãng sanh, nhưng ý ta nhất định không bị ngài phá hoại. Vì sao? Không phải ta không tin những kinh luận ấy, ta tin tất cả, nhưng Đức Phật nói kinh luận ấy cho thời gian khác, nơi chốn khác, căn cơ khác, lợi ích khác. Hơn nữa, khi Phật nói kinh ấy chẳng phải là lúc thuyết các kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh A-di-đà… Phật thuyết kinh giáo, thích ứng các thời đại và căn cơ cũng khác nhau. Hơn nữa, những kinh luận ấy Đức Phật nói về giải hành chung cho hàng Bồ-tát và trời người. Nay Phật nói Quán Kinh gồm hai thiện Định-Tán, là vì bà Vi-đề-hi và những chúng sanh trong đời năm trược chịu năm khổ mà xác chứng được vãng sanh. Vì lí do này mà hôm nay ta một lòng tuân theo lời Phật dạy, quyết định hành trì. Dẫu Ngài có nói trăm ngàn vạn ức lời “chẳng được sanh”, cũng chỉ giúp ta thành tựu thêm lòng tin thanh tịnh mà thôi!”
Lại nói tiếp rằng: “Nhân giả nên lắng nghe, hôm nay ta sẽ nói cho ngài nghe về lòng tin quyết định: Dẫu cho một vị Bồ-tát địa tiền , một vị A-la-hán, một vị Bích-chi-phật, hoặc nhiều vị, đầy khắp cả mười phương đều dẫn kinh luận chứng minh là không được vãng sanh, ta cũng không khởi một niệm nghi ngờ, mà chỉ giúp thành tựu thêm lòng tin thanh tịnh. Vì sao? Vì lời Phật là giáo liễu nghĩa quyết định thành tựu, không bị tất cả thuyết khác phá hoại.
Nhân giả hãy lắng nghe! Dẫu cho một vị bồ-tát từ Sơ địa đến Thập địa, hoặc nhiều vị, đầy khắp cả mười phương đồng nói rằng: “Phật Thích-ca chỉ khen ngợi Đức A-di-đà, chê trách ba cõi sáu đường. Khuyên chúng sanh chuyên tâm niệm Phật và tu các nghiệp thiện khác, hết một báo thân này, nhất định sẽ được vãng sanh cõi nước ấy. Đây là lời hư dối, không đáng tin theo”. Dù ta nghe như thế cũng không khởi một niệm nghi ngờ, mà chỉ giúp thành tựu thêm lòng tin quyết định tối thượng của ta mà thôi. Vì sao? Vì lời Phật là giáo liễu nghĩa quyết định chân thật. Vì Phật là đấng Thật tri, Thật giải, Thật kiến, Thật chứng, nên lời ấy chẳng phải từ tâm nghi hoặc xuất phát, lại chẳng bị tất cả những dị kiến, dị giải của bồ-tát phá hoại. Nếu thật là Bồ-tát, thì không trái với lời Phật.
Hành giả nên biết! Dẫu cho một Hóa Phật, một Báo Phật hoặc rất nhiều vị, đầy khắp cả mười phương, mỗi mỗi phóng ánh sáng, hiện tướng lưỡi trùm cả mười phương đồng thời nói rằng: “Phật Thích-ca khen ngợi, khuyên tất cả phàm phu chuyên tâm niệm Phật và làm tất cả các việc thiện khác, rồi hồi hướng nguyện sanh, nhất định sẽ được sanh về cõi ấy. Đây là lời hư dối, nhất định không có việc này”. Dù ta nghe các Đức Phật nói như thế, nhưng cũng không khởi một niệm nghi ngờ, sợ không được sanh về cõi Phật. Vì sao? Vì một Phật là tất cả Phật. Tất cả những tri